Phân tích thông số chất lượng nước khả thi trong nuôi tôm


Muhammad Kasnir và ctv, Đại học Indonesia Moeslim, Indonesia, thực hiện các nghiên cứu hóa lý tài nguyên nước ở quận Mangara Bombang, Nam Sulawesi về những vấn đề liên quan đến tiềm năng trong nuôi tôm.

Giới thiệu

Sản xuất tôm sú ở Nam Sulawesi đạt khoảng 12.599,50 tấn trong năm 2007. Trên thế giới, sản xuất tôm xếp hạng thứ tư sau quần đảo Riau, Sumatra Bắc và Tây Java. Sản lượng sản xuất tôm sú chủ yếu ở Regencies, trong đó có những khu vực ven biển ở tỉnh Nam Sulawesi. Một trong số đó là Takalar Regency, đặc biệt là ở quận Mangara Bombang. Tiềm năng của ngành thủy sản có thể được phát triển trong khu vực ven biển của Mangara Bombang là nuôi tôm trong ao.

Nuôi tôm trong ao được mở rộng để trở thành một ngành công nghiệp sinh học thực phẩm và được chứng minh là nguồn mang lại ngoại hối, cung cấp protein động vật và tạo cơ hội việc làm. Sự tồn tại của ngành phụ thuộc vào hỗ trợ mở rộng thị trường, giá cả ổn định, hỗ trợ kỹ thuật trong quá trình sản xuất, thương mại, quỹ đất tiềm năng và chính sách hỗ trợ từ Chính phủ làm cho các mặt hàng tôm liên tục phát triển và ngày càng mở rộng như là hàng hóa tuyệt vời để gia tăng ngoại hối. Tuy nhiên, nuôi trồng thủy sản bền vững trong ao tăng cao phụ thuộc vào các khía cạnh năng động từ chất lượng môi trường ven biển như là kết quả của bất kỳ sự tương tác giữa người sử dụng ở các khu vực ven biển, bên cạnh các hoạt động nuôi trồng thủy sản ao nội tại.

Mangara Bombang là một trong những huyện nằm ở khu vực ven biển Takalar Regency, trong đó tiềm năng nuôi trồng thủy sản tiếp tục phát triển. Do đó, nơi đây được chọn là một trong những trung tâm khu vực phát triển nuôi trồng thủy sản của Chính phủ Takalar Regency. Trồng rong biển và nuôi tôm là một trong những hoạt động nuôi trồng thủy sản phát triển trong thời gian hiện nay ở quận này. Toàn bộ ao ở khu vực ven biển của Mangara Bombang là 863,097 ha. Trong đó có 35,98 ha và 827,117 ha sử dụng một công nghệ thâm canh và thâm canh truyền thống vào việc quản lý tương ứng.

Chính phủ Takalar qua Marine và Dịch vụ thủy sản, vào năm 2008 thiết lập kế hoạch chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản và một trong số đó là sự phát triển nuôi trồng thủy sản trong ao. Đặc biệt ở quận Mangara Bombang có 1.851 ha và 335 ha khu vực ven biển được sử dụng nuôi tôm đơn canh và phát triển mô hình tôm cá với mục tiêu sản xuất 2.696,13 tấn và 125,10 tấn.

Ngoài hoạt động nuôi tôm, những ao trong khu vực ven biển của huyện Mangara Bombang trong thời gian hiện tại và cũng đang phát triển trong tương lai sẽ dẫn đến thiệt hại về môi trường nước trong một ngày gần nhất nếu không có bất kỳ sự quản lý tốt. Sự tồn tại của môi trường nước bị ô nhiễm cuối cùng sẽ đe dọa tính bền vững của nguồn lợi cá tôm trong ao. Vì vậy, nghiên cứu này nhằm mục đích xác định điều kiện chất lượng nước cho sự bền vững của nghề nuôi tôm ao ở khu vực ven biển của huyện Mangara Bombang. Nghiên cứu này được dự kiến ​​sẽ cung cấp thông tin cho nông dân nuôi tôm ao để tăng sản xuất. Ngoài ra, các dữ liệu thu được có thể được sử dụng như là các dữ liệu hỗ trợ trong xây dựng chính sách của Chính phủ đối với việc lập kế hoạch và quản lý diện tích ao nuôi tôm.

Địa điểm và thời gian nghiên cứu

Nghiên cứu này đã được thực hiện ở khu vực trang trại nuôi tôm trong những khu vực ven biển của huyện Mangara Bombang, Takalar Regency, Nam Sulawesi, Indonesia bắt đầu từ tháng 6 năm 2010 đến tháng 7 năm 2010.

Phương pháp nghiên cứu

Việc thu thập dữ liệu và sinh lý chất lượng nước bao gồm chất lượng ao đất, chất lượng nước, hải dương học (thủy triều, tốc độ và độ sâu), chất lượng trầm tích nuôi tôm và các vùng nước ven biển dữ liệu đất tại địa phương. Dữ liệu chất lượng đất tại ao được thu thập từ 10 trạm ở một số ao. Trong khi đó, đối với các vùng nước ven biển, chất lượng nước được thu thập dữ liệu từ 6 trạm gồm 2 trạm sông, 2 trạm ao và 2 trạm từ cửa sông. Hơn nữa, dữ liệu chất lượng bề mặt cơ sở nuôi tôm, chất lượng trầm tích trang trại và các vùng nước ven biển được thu thập từ 2 trạm và 13 điểm lấy mẫu tương ứng.

Dữ liệu và dữ liệu nguồn

Dữ liệu sơ cấp và thứ cấp được sử dụng trong nghiên cứu này. Dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua quan sát và phỏng vấn trực tiếp tại địa điểm trong khi nghiên cứu, dữ liệu thứ cấp được thu thập thông qua việc tìm kiếm tài liệu tham khảo khác nhau ở một số cơ quan của chính phủ và phi chính phủ có liên quan đến nghiên cứu. Một số thông số chất lượng nước được liệt kê trong bảng 1 đó là những thông số quan trọng góp vào thành công trong nuôi tôm. Việc giám sát và thu thập mẫu của chất lượng nước được thực hiện trực.

Kết quả và thảo luận

Chất lượng nước là một trong những yếu tố quan trọng trong việc xác định thành công các hoạt động của nghề nuôi tôm.

Nhiệt độ nước

Đo nhiệt độ nước trong nuôi tôm theo hướng truyền thống đã thu được nhiệt độ là 29,56 ± 0.75°C. Trong khi đó, nhiệt độ của nước ao cho thấy kết quả đo nhiệt độ ở các vùng nước ven biển và sông là 28,56 ± 2,72°C, 26,77 ± 1,94°C. Quan sát nhiệt độ cho thấy nằm trong khoảng thích hợp nuôi tôm. Báo cáo của Boyd, Poernomo, Widigdo, Soewardi phạm vi nhiệt độ từ 20 đến 32°C là những giá trị nhiệt độ được khuyến cáo trong nuôi tôm và từ 29 đến 30°C là nhiệt độ tối ưu cho sự phát triển tôm nuôi.

Độ mặn

Kết quả đo độ mặn cho thấy độ mặn thu thập được trong vùng nước sông và ven biển vẫn còn trong các giá trị khuyến nghị cụ thể là 17.95 ± 3.79 ‰ và 30.90 ± 4.01 ‰. Theo Boyd, Poernomo, Widigdo, Soewardi, độ mặn từ 5 – 35 ‰ rất thích hợp cho nuôi tôm và độ mặn từ  15 – 25 ‰ là độ mặn khuyến cáo cho sự phát triển tối ưu của tôm.

pH

Kết quả đo pH ở những vùng nước nuôi tôm trong 24 giờ là 8,17 ± 0,38. pH của nước ao thu được là khoảng 8,06 – 8,17, trong đó, pH cao nhất (8,17) là 12.00 – 13.00 và thấp nhất là 01.30 và 03.30 – 04.00. Kết quả đo pH ở sông và vùng nước ven biển tương ứng là 7,77 ± 0.42 và 8,06 ± 0.40. Giá trị pH vẫn còn trong khoảng thích hợp cho nuôi tôm là 6,5 – 8,5 với ngưỡng pH tối ưu là 8,0 – 8,5 (ngưỡng cho phép 6 – 9).

Oxy hòa tan

Duy trì hàm lượng DO ở mức phù hợp trong ao nuôi là điều rất quan trọng quan trọng cho sự sống còn của tôm và khi tiếp xúc kéo dài với stress oxy ở nồng độ thấp có thể ức chế sự tăng trưởng tôm. Nghiên cứu này tập trung vào DO và xem đây là điều hiển nhiên chấp nhận được đối với một ao tôm. Trong thời gian quan sát, nồng độ oxy hòa tan ở những vùng nước dao động 6.65 ± 1.08 mg/l. Trong khi đó, nồng độ oxy hòa tan trong trại nuôi tôm trong 24 giờ sau khi quan sát dao động 5,89 – 6,02 mg/l với oxy hòa tan cao nhất là (6,02 mg/l) là 12.00 giờ và mức thấp nhất (5,89 mg/l) là 20.00 giờ. Ngoài ra, nồng độ oxy hòa tan trong sông và vùng nước ven biển tương ứng là 6,02 ± 0,86 và 5,88 ± 1,42 mg/l. Giá trị này vẫn còn thích hợp cho nuôi tôm theo báo cáo của Boyd, Poernomo, Widigdo, sự bão hòa oxy hòa tan trong nuôi tôm là ≥ 3 mg/l (3 -10 mg/l) và ngưỡng oxy tối ưu từ 4 – 7 mg/l. Cheng và ctv báo cáo rằng giá trị DO cao hơn 5 mg/l thường được đề nghị cho thực hành nuôi thâm canh.

Tổng số chất rắn lơ lửng (TSS)

Kết quả đo cho thấy giá trị TSS trong nuôi tôm là 37,73 ± 12,44 mg/l, trong khi đó, giá trị TSS trong trại nuôi tôm truyền thống là 55,20 ± 10,54 mg/l. Hơn nữa, giá trị này ở vùng ven biển và sông là 58,17 ± 22,18 mg/l và 60,13 ± 15,45 mg/l. Tuy nhiên, TSS vẫn còn trong giới hạn sai lệch ở mức cho phép trong báo cáo của Widigdo, Bộ Môi trường cho trang trại nuôi tôm là 25 – 80 mg/l.

Nhu cầu oxy sinh hóa/BOD5

Đo BOD5 với giá trị là 1,16 ± 0.53 mg/l, trong khi đó, giá trị BOD5 cho các vùng ven biển và sông là 0,74 ± 0.27 mg/l và 1,32 ± 0.80 mg/l. Giá trị BOD5 vẫn còn thích hợp cho nuôi tôm dựa trên giá trị khuyến cáo BOD5 của Bộ Môi trường (2004) là < 25 mg/l. Xét về mức độ ô nhiễm, chất lượng nước ven biển của huyện Mangara Bombang nằm trong khu vực không bị nhiễm và rất thích hợp cho nuôi tôm.

Amoniac (NH3-N)

Quan sát amoniac (NH3-N) trong các vùng nước nuôi tôm là 0,02614 ± 0,3355 mg/l. Trong khi đó, kết quả đo amoniac (NH3-N) ở các vùng nước ven biển và sông là 0,2636 ± 0,3303 mg/l và 0,1101 ± 0,0812 mg/l. Giá trị ammonia vẫn còn trong lưu giới hạn cho phép nuôi tôm dựa trên ammonia (NH3-N) theo thông tin từ Boyd, Poernomo, Widigdo, Bộ Môi trường là < 1,0 mg/l.

Nitrite (NO2)

Đo hàm lượng Nitrite (NO2) trong các vùng nước nuôi tôm là 0,0555 ± 0,0956 mg/l. Trong khi đó, nitrite (NO2-N) ở các vùng nước ven biển và các con sông là 0,2483 ± 0,5690 mg/l và 0,0250 ± 0,0074 mg/l. Giá trị này vẫn còn trong giới hạn cho trang trại nuôi tôm dựa trên các giá trị cho phép theo khuyến cáo là < 0,25 mg/l.

Nitrate (NO3-N)

Hàm lượng Nitrate (NO3-N) ở các vùng nước nuôi tôm là 0,0115 ± 0,0104 mg/l. Trong khi đó, Nitrate (NO3-N) ở vùng nước ven biển và sông là 0,0110 ± 0,0141 mg/l và 0,0924 ± 0,1241 mg/l. Lượng Nitrate (NO3-N) thu thập được chỉ ra rằng Mangara Bombang là khu vực thích hợp cho nuôi tôm.

Orthophosphat (PO43- – P)

Phosphate (PO4-P) thu được ở các vùng nước ao nuôi tôm, vùng ven biển và sông vẫn còn trong giới hạn giá trị cho phép nuôi tôm với giá trị lần lượt là 0,0201 ± 0,0051, 0,0583 ± 0,0648 và 0,0051 ± 0,0037 mg/l. Theo báo cáo của Boyd; Poernomo; Widigdo; Bộ Môi trường, giới hạn giá trị của Phosphate (PO4-P) thích hợp cho hoạt động nuôi tôm là 0,05-0,5 mg/l.

Độ đục

Quan sát giá trị độ đục trong ao tôm là 9,69 ± 3,41 NTU, kết quả thu được trong các vùng nước ven biển và sông là 14,44 ± 17,65 và 21,42 ± 4,43 NTU. Giá trị độ đục vẫn trong giới hạn sai lệch trong nền công nghiệp tôm. Nhìn chung, chất lượng nước ở các khu vực ven biển của huyện Mangara Bombang phù hợp hoặc có thể hỗ trợ cho các hoạt động nuôi tôm dựa trên các tiêu chí được đề nghị bởi Boyd, Poernomo, Widigdo, Soewardi và Bộ Môi trường.

Kết luận

Nghiên cứu này cung cấp các thông tin về tình trạng chất lượng nước của Quận Mangara Bombang và hoàn toàn phù hợp cho nuôi tôm trong ao. Quan sát thực địa chất lượng nước và trong phòng thí nghiệm tiết lộ rằng các khu vực nghiên cứu có tiềm năng phát triển nuôi tôm ao dựa trên các giá trị thu hoàn toàn phù hợp với các giá trị được khuyến nghị cho nuôi tôm.

Góp ý

Để tiếp tục nghiên cứu về tính khả thi của chất lượng nước cho sự phát triển của nghề nuôi tôm theo công nghệ nuôi thâm canh và bán thâm canh nhằm thu được hình ảnh tổng quan về tính khả thi chất lượng nước cho phát triển nuôi tôm ở các công nghệ nuôi khác nhau.

0 nhận xét:

Bài viết được xem nhiều