Hiển thị các bài đăng có nhãn kinh nghiệm nuôi tôm. Hiển thị tất cả bài đăng

Quản lý thức ăn: Yếu tố quan trọng cho vụ nuôi tôm thành công


Ngoài yếu tố tôm nuôi chết sớm do bệnh gan tuỵ cấp thì thức ăn là một nguyên nhân gây bất lợi cho tôm, dẫn đến vụ nuôi không thành công như mong đợi. Do đó, việc quản lý thức ăn phải được người nuôi đặt lên hàng đầu, nhất là trong thời kỳ dịch bệnh hiện nay.

Thức ăn cho tôm nuôi phải được cung cấp từ công ty có uy tín, chất lượng được kiểm chứng và người nuôi thành công trong nhiều năm qua. Việc vận chuyển thức ăn từ đại lý đến hộ nuôi có thể xảy ra xây xát, lủng bao hoặc ẩm ướt chắc chắn sẽ giảm chất lượng, gây hại cho sức khỏe tôm nuôi.

Anh Du Tô Sữa, ấp Hoà Trung, xã Lương Thế Trân, huyện Cái Nước, cho biết: “Vừa qua tôi sử dụng lô thức ăn 15 bao có hiện tượng như bị sấy lại, không còn mùi và cho tôm ăn trong khoảng 10 ngày thì có hiện tượng tôm tấp mé. Ðành phải thu hoạch sớm”.


Về quy trình nuôi, kỹ thuật nuôi, anh Sữa nhận định, khi cho ăn dư khoảng 3 cữ thì nước sẽ lên tảo màu xanh đen. Khi đó, một số trường hợp xử lý cắt tảo bằng các loại hoá chất để hạn chế sự nở hoa của tảo, đồng thời xử lý vi sinh, các loại thuốc trộn, khoáng tạt để tăng cường sức khoẻ cho tôm, ổn định môi trường ao nuôi. Những biện pháp này rất tốn kém và hiệu quả chỉ trong giai đoạn ngắn mà không ổn định được đến hết vụ nuôi.

Thạc sĩ Ðỗ Văn Hoàng, Phân viện Nghiên cứu thuỷ sản Minh Hải, cho biết: “Có rất nhiều loại đạm được các công ty thức ăn công bố nhưng tôm chỉ hấp thu được những loại đạm là axitamin dễ tiêu, còn lại tôm không hấp thu được sẽ thải ra môi trường bên ngoài”.

Cũng theo Thạc sĩ Ðỗ Văn Hoàng, từ kết quả nguyên cứu của nhiều nhà khoa học, tôm chỉ hấp thu được khoảng 17% đạm có trong thức ăn. Tuỳ theo sức khoẻ của tôm trong thời điểm khác nhau và tuỳ theo hàm lượng đạm (axitamin) dễ tiêu có trong thức ăn mà tôm hấp thụ được cũng khác nhau trong ngày. Bên cạnh đó, hiện nay việc kiểm tra cũng như quản lý chất lượng thức ăn – hàm lượng đạm trong thức ăn mà các công ty thức ăn công bố trên bao bì là rất khó khăn.

Lượng đạm được tôm thải ra môi trường hằng ngày cùng với đạm trực tiếp từ thức ăn khi người nuôi tôm cho ăn dư thừa được tích tụ lại dưới đáy ao. Sau một thời gian, lượng đạm này phân huỷ, sinh ra khí độc NH3 và H2S. Lượng khí độc này được người nuôi xử lý bằng các loại thuốc thuỷ sản và phải định kỳ để ổn định nhưng rất tốn kém. Cùng với lượng đạm dư thừa trực tiếp gây nở hoa cho tảo và khi tảo tàn sẽ vào mang tôm gây khó khăn cho tôm hô hấp, dẫn đến tôm chết đáy, người nuôi thu hoạch sớm trong giai đoạn 1-2 tháng tuổi như đã qua.

Do đó, để vụ nuôi thành công, người nuôi phải sử dụng vi sinh chất lượng xử lý đáy định kỳ; phải quản lý, cho tôm ăn theo phương châm từ đủ đến thiếu lượng thức ăn cho tôm vào mỗi lần cho ăn. Phải căn cứ vào trọng lượng tôm hiện tại cùng với số lượng tôm thả nuôi để xác định lượng thức ăn cho mỗi lần ăn. Nếu thực hiện tốt việc quản lý thức ăn trên thì chi phí cho vụ nuôi sẽ giảm và bớt rủi ro, giúp vụ nuôi thành công cao hơn…

Theo Diệu Lữ, Báo Cà Mau, 09/11/2014

Gây màu nước cho ao nuôi tôm và những lưu ý


Gây màu nước rất quan trọng trong nuôi tôm. Tuy nhiên, trên thực tế, hiệu quả của việc gây màu nước luôn không như mong muốn, có màu nước lợi cho tôm và cũng có màu nước lại gây hại cho tôm. Vì vậy, người nuôi tôm cần nắm vững quy luật thay đổi màu nước.

Nguyên tắc gây màu nước trước khi thả giống

- Nước được gây màu và các chất dinh dưỡng trong phân bón (đạm, lân, kali và các nguyên tố vi lượng khác) nên cân bằng giữa các chất.

- Phân vô cơ (phân hóa học) là sản phẩm hiệu quả tức thì, tuy gây màu nước nhanh nhưng thời gian duy trì ngắn; phân hữu cơ thuộc sản phẩm hiệu quả kéo dài, tuy gây màu nước chậm nhưng thời gian duy trì khá lâu. Hai loại kết hợp sử dụng một cách hợp lý có thể đạt được hiệu quả gây màu nước tốt vừa nhanh mà lại ổn định.

- Khi sử dụng phân vô cơ phải dựa vào tình hình ánh sáng mặt trời, dùng ít nhưng nhiều lần. Ánh sáng mạnh, thời gian chiếu sáng dài thì bón nhiều, ngược lại thì bón ít nhưng bón nhiều lần. Nếu không những ngày trời mưa, sau khi bón phân, phần lớn sẽ chìm xuống đáy ao, có khả năng khiến rêu xanh sinh sôi nhiều.

- Lượng phân bón cơ bản phải đủ, nhất định phải xem xét các chất dinh dưỡng đã có trong ao, chẳng hạn như bùn và kết cấu số lượng các chất dinh dưỡng cơ bản đã bón xuống ao. Nếu bùn đáy nhiều thì bón ít, bùn đáy ít hoặc ao mới thì bón một lượng thích hợp.

- Khi bùn đáy ít, nếu chỉ bón riêng chế phẩm vi sinh (khuẩn sống) thì hiệu quả gây màu tương đối kém, những khuẩn này sau khi xuống ao sẽ không gì có thể phân giải nó thành phân bón được.

- Bón phân sau khi thả giống nên bón ít nhưng nhiều lần, sử dụng ít hoặc thận trọng khi sử dụng phân đạm như phân urê, nếu không thì hàm lượng NH3 có thể sẽ tăng lên.

- Hàm lượng đạm lân thực tế trong nước vượt quá tỷ lệ 10:1 thì tảo Silic rất dễ sinh sôi phát triển mạnh; tỷ lệ đạm lân là 3:1 - 7:1, thậm chí gần 10:1 thì tảo lục dễ phát triển nhiều; nhưng tỷ lệ đạm lân xấp xỉ 1:1 thì các loại tảo như tảo Dinoflagellates hay tảo Flagellates độc hại dễ sinh sôi nhiều.

- Sau khi gây màu nước, độ trong suốt của nước nên nằm trong khoảng 30 cm. Nước màu xanh (xanh nhạt, xanh lục, xanh vàng hoặc màu đậu xanh) ổn định hơn so với nước màu nâu (màu trà, màu nâu sẫm). Muốn có được màu nước ổn định cần điều chỉnh số lượng, chủng loại phân bón.

Lợi và hại trong phương pháp gây màu nước theo thông thường

- Phương pháp gây màu nước thông thường trước tiên là dọn ao, giải độc, sau đó cho nước vào giải độc gây màu nước, trên cơ bản đã gây được màu nước, nhưng một tuần, nhiều nhất là khoảng nửa tháng thì nước lại trong và rớt tảo, quấn tảo. Nếu chỉ sử dụng những sản phẩm có chứa phân hóa học thì tuy phát huy tác dụng nhanh, nhưng thời gian ổn định không dài. Có không ít hộ nuôi sử dụng các phương pháp như: phân gà, vịt, lợn, bột chất lượng kém (vốn gọi là bột vàng), bã lạc, bã đậu, đường gạo thêm vào một ít phân hóa học hoặc các sản phẩm bán trên thị trường để gây màu, hiệu quả cũng rất ổn nhưng 10 - 15 ngày sau lại hết tác dụng. Đó là vì những dinh dưỡng được bón xuống nước không đầy đủ, không cân bằng dẫn đến hiện tượng thiếu hụt một vài chất dinh dưỡng (phần lớn là đạm đủ lân thiếu), một vài loại tảo bị ức chế sinh trưởng, mà cùng lúc lại có những loại tảo khác sinh trưởng dẫn đến quấn tảo.

- Có người sử dụng sản phẩm khuẩn sống (còn gọi là chế phẩm vi sinh hay sinh học) như: Vi khuẩn quang hợp, khuẩn Bacillus, khuẩn Nitrat… một số thấy hiệu quả ngay, một số hiệu quả không rõ rệt, tại sao lại như vậy?

Làm phép so sánh, khuẩn sống giống như nồi cơm điện và điện của chúng ta, các sản phẩm gây màu (như phân gà, đường gạo, bã đậu...) giống như gạo chúng ta bỏ vào nồi, bao nhiêu gạo thì nấu ra bấy nhiêu cơm. Khuẩn sống chủ yếu có tác dụng phân giải và phân giải từ từ, các chất dinh dưỡng bón xuống nước không nhiều hoặc ít bùn, tất nhiên là không đủ điều kiện gây màu, gây màu không đủ khó tránh khỏi nước thay đổi biến chất, đặc biệt là những ao mới, thời kỳ đầu cho ăn ít, chất bài tiết của tôm cũng rất ít, chất dinh dưỡng trong nước ao ít, hiệu quả sử dụng vi khuẩn làm sao có thể duy trì được trong thời gian dài đây? Trừ khi thêm vào các chất có đầy đủ dinh dưỡng vào trong sản phẩm khuẩn sống thông thường.

- “Axit amin gây màu nước”, sản phẩm này cũng phổ biến giống như chất gây màu nước axit amin, dầu gây màu nước axit amin, dịch gây màu axit amin, thành phần chủ yếu ngoài những axit amin phức hợp ra còn có peptit hoạt tính, nhiều vitamin và khoáng chất, thậm chí còn có cả khuẩn phức hợp có ích. Phát huy tác dụng nhanh, hiệu quả tốt, vì axit amin được sử dụng nhanh hơn các protein thông thường, dinh dưỡng phong phú, hiệu quả gây màu cũng duy trì được khá lâu, nhưng các axit amin sau khi phân giải chủ yếu sinh ra đạm, cũng có thể là do thiếu lân, kali hoặc các nguyên tố vi lượng… hoặc là tỷ lệ không cần bằng dẫn đến hiện tượng quấn tảo.

Nguyên nhân gây màu nước thất bại

- Số lượng tảo trong nguồn nước (nước ngầm, nước nghèo dinh dưỡng) phải cho vào ao ít, ví dụ như hồ cao triều, ao lót bạt, ao đất cát… không đủ dinh dưỡng, thiếu các muối dinh dưỡng mà các loại tảo cần để sinh trưởng;
- Sử dụng các thuốc giải độc có tác dụng phụ lớn, tiêu diệt các loại tảo và vi sinh vật, kìm hãm sự sinh trưởng và sự phát triển của nó;
- Nước ao axit;
- Mặc dù bón phân nhưng thiếu một vài loại muối dinh dưỡng hoặc đã mất tác dụng gây màu, các loại tảo cũng không phát triển nổi;
- Trời mưa, không đủ ánh sáng mặt trời hoặc là do nhiệt độ thấp kìm hãm tốc độ sinh sôi phát triển của tảo;
- Các động vật phù du ăn tảo trong nước nhiều (trùng bánh xe, các loại giáp xác chân chèo, Brine Shrimp);
- Trong nước có quá nhiều tảo tạp (Cladophora, Enteromorpha Prolifra, cỏ mương… vẫn gọi là “rêu”) ức chế sinh sôi phát triển của tảo đơn bào.

Đối sách

Tảo là một loại thực vật, bất kỳ loài thực vật nào sinh trưởng phát triển cũng cần có giống, phân, ánh sáng, thiếu một trong ba đều không được, do đó nếu muốn gây màu nước thì phải chuẩn bị ba việc sau đây:

- Giống tảo: Các loại tảo gây màu nước phải khỏe mạnh, đầy đủ chủng loại và cân bằng nhau.
- Phân bón: Dinh dưỡng trong phân bón cân bằng, hiệu quả nhanh và lâu dài đều.
- Ánh sáng: Không có ánh sáng thực vật không thể sinh trưởng phát triển được. Đồng thời các sinh vật có hại trong nước ít, pH, nhiệt độ nước thích hợp.

Một số biện pháp xử lý nước phục vụ cho trại tôm giống


Nước biển có độ khoáng rất cao, thường vào khoảng 35g/l. Nồng độ muối trong nước biển lớn hơn trong nước ngọt 2.000 lần. Độ khoáng hóa nước biển hoàn toàn phụ thuộc vào lượng các ion chủ yếu có trong nước biển. Trong nước biển, Na+, Cl-, Mg2+ chiếm 90%; K+, Ca2+, SO4 2- chiếm 3%; các chất còn lại chiếm 7% tổng lượng các chất.

1. Xử lý các chất cặn bã hữu cơ và khử trùng:

1.1 Thuốc tím (KMnO4).

Thuốc tím có tác dụng loại bỏ các chất hữu cơ và kim loại nặng. Đối với nguồn nước biển có hàm lượng phù sa nhiều, độ đục cao, có nhiều chất, hàm lượng kim loại nặng cao. Cần phải loại bỏ chúng trước khi đưa vào xử lý diệt trùng.

Dựa trên các nguyên lý sử dụng thuốc tím theo phương trình (1) và (2) như sau:

3Fe(HC03)2+ KMnO4+ 7H2O → MnO2+ 3Fe(OH)3↓+ KHCO3+ 5H2CO3
1mg Fe2+/ liter ≈ 0,94mg KMnO4
3H2S + KMnO4→ S + MnO + 3H2O
1mg H2S/ liter ≈ 6,19mg KMnO4/ liter

Thông thường lượng thuốc tím cần dùng để xử lý nguồn nước biển từ Vũng Tàu đến Cà Mau từ 0,5-2 mg/ lít.

Nước biển sau khi dùng thuốc tím để xử lý sẽ có màu tím hồng nhưng nhanh chóng mất màu và tạo kết tủa. Nếu lượng thuốc tím vừa đủ thì sau 24h thì nước sẽ trong.

1.2 Xử lý nước bằng EDTA

Ngoài ra có thể sử dụng EDTA với nồng độ 5-10 ppm để xử lý nước ngay trong bể nuôi ấu trùng.

1.3 Khử trùng nước bằng Clorin

Chlorin Ca(OCl)2 khi hòa tan vào nước sẽ tồn tại dưới dạng Cl2.HOCl.OCl.Cl2 có tác dụng diệt trùng cao.

Thường Clorin thương mại 70% có nghĩa là 1gr Clorin đó có chứa 0,392 g Cl2. Sau khi xử lý Clorin, lượng Cl2 vẫn còn dư thừa trong nước, lượng Cl2 dư thừa trong nước cũng sẽ gây độc đối với tảo và ấu trùng tôm, do vậy trước khi đưa nước vào bể nuôi tôm giống phải loại bỏ lượng Cl2 dư thừa bằng Thiosulphat:

Cl2+ 2Na2CO3.H2O → Na2S2O6+ NaCl + 10H2O

* Cách kiểm tra Cl2 tự do dư thừa trong nước:

Lấy 10-20 ml nước đã xử lý Chlorin nhỏ 1-2 giọt thuốc thử Orthotolidin 1% nếu nước xuất hiện màu vàng là còn dư Cl 2, nếu nước không màu chứng tỏ đã không còn dư Cl2.

* Theo kinh nghiệm, sau 24 h xử lý Chlorin, người ta dùng một lượng Thiosulphat tương đương với lượng Chlorin đã sử dụng để khử lượng Cl2 dư thừa trong nước.

2. Lọc cơ học:

Nước trong bể lắng đã được loại bỏ chất hữu cơ, khử trùng sẽ được lọc qua bể cát.
Thông thường bể lọc cát có thể tích 2m3 sử dụng 300kg cát có đường kính 0,5-1mm 100 kg đá 1-2.

3. Trình tự các bước xử lý nước trong trại sản xuất tôm giống.

Bước 1: Bơm nước từ biển lên bể lắng.
Bước 2: Xử lý thuốc tím (trong thời gian 24h).
Bước 3: Bơm nước từ bể lắng sang bể xử lý.
Bước 4: Xử lý Chlorin trong bể xử lý (trong thời gian 24h).
Bước 5: Bơm nước từ bể lắng sang bể lọc.
Bước 6: Nước từ bể lọc chảy tự động sang các bể nuôi theo yêu cầu.

Nguồn Trung tâm Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản – Đại Học Thủy Sản


Trải lòng nuôi tôm mùa mưa lũ


Những cơn mưa liên tục kèm theo nguy cơ lũ lụt là nguyên nhân gây phát sinh dịch bệnh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tôm nuôi. Kinh nghiệm quản lý môi trường ao nuôi trong mùa mưa, lũ là vô cùng quan trọng để góp phần đưa tôm nuôi vượt qua dịch bệnh, phát triển tốt.

Quản lý môi trường

Ổn định pH: Thông thường, pH trong ao tôm ở mức 7,5 - 8,5. Mưa lớn kéo dài, do tính chất axit của nước mưa cộng thêm quá trình rửa trôi phèn từ bờ xuống ao tôm làm cho pH môi trường ao tôm giảm. Do đó, để hạn chế tình trạng này, người nuôi cần theo dõi thông tin thời tiết, bón vôi trước và trong những trận mưa kéo dài. Rải vôi dọc theo bờ ao khi trời mưa với liều lượng 10 kg/100 m2. Nếu pH thấp, sử dụng vôi nông nghiệp CaCO3 liều lượng 10 - 20 kg/1.000 m3 nước ao tùy giá trị pH đo được (chạy quạt để trộn đều nước), xử lý từ từ cho đến khi pH nằm trong ngưỡng cho phép (từ 7,5 trở lên).

Kiểm soát độ kiềm:

Tôm sú có độ kiềm thích hợp là 85 - 130 mg/l; tôm thẻ chân trắng nằm trong khoảng 100 - 150 mg/l. Sau mưa, độ kiềm ao nuôi có xu hướng giảm, vì vậy, cần dùng vôi Dolomite ngâm vào nước ngọt trong 24 giờ, sau đó tạt đều xuống ao vào 8 - 10 giờ đêm với mức 1,655 g vôi Dolomite sử dụng cho cho 1 m3 nước sẽ tăng độ kiềm lên 1 mg/l. Ví dụ: muốn tăng độ kiềm của ao tôm 3.000 m3 từ 80 lên 90 mg/l thì cần 3.000 × 1,655 × (90 - 80)/1.000 = 46,65 kg. Lưu ý, mỗi lần tăng độ kiềm chỉ nên tăng khoảng 10 mg/l, bởi nếu độ kiềm tăng quá nhanh sẽ làm tôm bị sốc, sức đề kháng giảm.

Ngăn chặn nước ao bị đục:

Nguyên nhân làm nước ao tôm bị đục là do các chất hữu cơ, hạt sét bị nước mưa cuốn trôi từ trên bờ xuống ao tôm. Nước đục sẽ làm hạn chế khả năng quang hợp của tảo làm tôm thiếu ôxy, tảo thường tàn đột ngột, tôm bị đen mang, vàng mang do bị những vật chất lơ lửng trong nước bám vào mang tôm. Để khắc phục tình trạng này, có thể sử dụng muối vô cơ như nhôm sunfat (Al2(SO4)3) hoặc  thạch cao để làm trong nước. Sau khi nước giảm đục, cần tiến hành gây màu tảo để tạo môi trường ổn định cho tôm nuôi.

Ngoài ra, khi xuất hiện những cơn mưa lớn cần tăng cường chạy quạt nước để tránh sự phân tầng nhiệt độ, cung cấp thêm ôxy và tăng nhiệt độ nước. Sau những cơn mưa, phải đảm bảo mực nước ao nuôi tôm ổn định ở mức 1,2 - 1,5 m. Khi mực nước ao tôm cao do nước mưa, tiến hành xả bớt lượng nước tầng mặt để duy trì mực nước trong ao, đồng thời tránh làm giảm độ mặn đột ngột, tràn bờ, vỡ cống bọng. Khi mưa chấm dứt vài ngày, thời tiết nắng, tạo điều kiện vi khuẩn có hại phát triển, cần diệt khuẩn để giảm bớt mầm bệnh. Cấy vi sinh lại sau 2 ngày kết hợp với quạt nước, máy bơm, tăng cường hàm lượng ôxy hòa tan, kích thích vi khuẩn có lợi trong ao phát triển, ức chế vi khuẩn có hại, tăng cường phân hủy chất hữu cơ, hạn chế hiện tượng tảo phát triển quá mức.

Sử dụng chế phẩm sinh học

Bổ sung chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản phù hợp là yếu tố không thể thiếu khi nuôi tôm mùa mưa lũ, giúp tôm tăng cường khả năng chống chịu, tăng cường sức đề kháng, phòng các dịch bệnh có thể lây lan,...

Quản lý cho ăn

Khi thời tiết âm u kéo dài, có dấu hiệu sắp mưa cần giảm lượng thức ăn hoặc có thể ngưng cho ăn. Thông thường ở 18 độ C, tôm vẫn có thể bắt mồi nếu nhiệt độ giảm xuống từ từ hoặc đây là nhiệt độ hằng ngày trong mùa lạnh và lượng thức ăn chỉ 10 - 20% so với nhu cầu bình thường. Mỗi khi nhiệt độ giảm đi khoảng 20C thì lượng thức ăn giảm khoảng 30%. Nên kiểm tra nhiệt độ nước trong ao trước khi cho tôm ăn. Tôm ngừng ăn khi nhiệt độ giảm đột ngột từ mức thích hợp (28 - 30 độ C) xuống 22 độ C. Lưu ý, đảm bảo lượng thức ăn không được dư thừa, vì chính nó là nguyên nhân làm ô nhiễm môi trường nước, dẫn đến sự nở hoa của tảo, tăng khí độc…

Bên cạnh đó, khi mưa kéo dài, tôm nuôi có thể bị mềm vỏ, khó lột xác do độ kiềm giảm thấp. Để khắc phục tình trạng này ngoài việc dùng Dolomite thì cần cho tôm ăn thức ăn chất lượng cao, trộn các loại Vitamin C, Vitamin tổng hợp và khoáng chất vào thức ăn hàng ngày để tăng sức đề kháng cho tôm.


Loài cá nuôi ghép giúp tôm phòng bệnh


Kết quả cho thấy rằng chất nhầy từ da của cá Măng (C. Chanos) có đặc tính miễn dịch bẩm sinh mạnh hơn so với các loài cá khác và vì vậy việc nuôi ghép cá này với các loài cá khác hoặc tôm có thể có những tác dụng có lợi cho phòng bệnh hiệu quả.

Các tính chất miễn dịch và sinh hóa của chất nhầy trên da của các loài cá khác nhau có thể có tác dụng có lợi đối với việc quản lý sức khoẻ khi cá được nuôi trong cùng một hệ thống.

Thí nghiệm

Thí nghiệm này của các nhà khoa học Ấn Độ được tiến hành để điều tra và so sánh các tính chất miễn dịch và sinh hóa của chất nhầy ở 3 loài cá nước lợ: Cá Chẽm (Lates calcarifer), cá Măng (Chanos chanos) và cá Đối (Mugil cephalus). Chất nhầy được thu thập từ bề mặt bên ngoài da của 6 cá thể cá của mỗi loài và được sử dụng để phân tích các đặc tính miễn dịch và thành phần sinh hóa.

Cá Chẽm (Lates calcarifer)
Cá Măng (Chanos chanos)
Cá Đối (Mugil cephalus)

Kết quả

Các thông số miễn dịch cơ bản như lysozyme, hoạt tính đông máu, hoạt hóa bào thực và lectin cao hơn đáng kể một cách có ý nghĩa trong chất nhầy của cá Măng (C. chanos) (p <0.05), sau đó là Chẽm (L. calcarifer) và thấp nhất là cá Đối (M. cephalus).

Tương tự, chất nhầy của cá Măng (C. chanos) có hoạt tính protease, alkaline phosphatase và hoạt tính kháng khuẩn cao nhất. Phân tích quang phổ UV cho thấy sự có mặt của toluen, izoquinolin, 2-furdehyde, axit octadecenoic, biphenyl, thymidine và acid cinnamic trong chất nhầy của cá Chẽm (L.calcarifer), trong khi đó không có ở hai loài khác.

Phân tích phổ hồng ngoại biến đổi Fourier cho thấy isothiocyanat, aldehyde và alkene là các nhóm chức năng thông thường trong chất nhầy của cả ba loài cá.

Kết luận

Kết quả cho thấy rằng chất nhầy từ da của cá Măng (C. chanos) có đặc tính miễn dịch bẩm sinh mạnh hơn so với các loài cá khác và vì vậy việc nuôi ghép cá này với các loài cá khác hoặc tôm có thể có những tác dụng có lợi cho phòng bệnh hiệu quả.

Nguồn: Springer

Nuôi tôm là nuôi nước


Trong năm 2015, hiện tượng tôm chết vì bệnh hoặc không rõ nguyên nhân trong khoảng 30 - 45 ngày đầu tiên hoặc chậm lớn xảy ra khá phổ biến ở nhiều vùng nuôi tôm trên cả nước. Nếu tôm giống có nguồn gốc rõ ràng, sạch bệnh thì nguyên nhân của các hiện tượng vừa nêu chủ yếu liên quan đến cách thức cải tạo ao hoặc quản lý chất lượng nước. Kinh nghiệm thực tiễn đã khẳng định người nuôi tôm sẽ thành công hơn nếu thực hành được nguyên tắc cốt lõi “nuôi tôm là nuôi nước”.

Để “nuôi” được nước, chúng ta cần hiểu về yêu cầu chất lượng nước ban đầu và diễn biến điển hình của nó trong một vụ nuôi. Hơn nữa, đánh giá chất lượng nước bằng cảm quan chỉ hiệu quả với những người đã có nhiều năm kinh nghiệm. Nếu bạn mới bắt đầu nuôi tôm, cần phải thực hiện một cách nghiêm túc các công đoạn trong quá trình cải tạo ao, dự đoán thời điểm có thể xảy ra sự cố và thường xuyên quan trắc các yếu tố môi trường quan trọng trong suốt quá trình nuôi.

Tôm thẻ chân trắng là loài rộng muối. Nhờ vậy chúng được thả nuôi ở cả 3 vùng nước: mặn, lợ và ngọt. Tuy nhiên, độ mặn chỉ là một trong nhiều yếu tố môi trường cần phải kiểm soát. Không phải nguồn nước cấp nào cũng có tính chất tự nhiên thuận lợi cho việc nuôi tôm. Các yếu tố môi trường cơ bản của nguồn nước ban đầu cần được kiểm tra gồm độ mặn, độ pH, độ kiềm và hàm lượng chất hữu cơ.

Độ mặn phù hợp để nuôi tôm thẻ chân trắng dao động từ 5 – 35 %o. Những vùng có độ mặn thấp hơn 5 %o thường có độ kiềm thấp (20 – 60 mg CaCO3/l), khiến cho pH biến động lớn hoặc không đáp ứng được nhu cầu về khoáng của tôm nuôi. Gặp trường hợp này người nuôi tôm cần bón vôi, bổ sung thêm khoáng tổng hợp và kali (K+). Khi cần nâng nhanh độ kiềm trong ao, ví dụ như sau khi tôm lột xác, nên sử dụng NaHCO3. Độ kiềm của nước trong ao cần phải được duy trì ở mức 80 – 120 mg CaCO3/L.

Để kiểm soát tốt dịch bệnh, độ pH của nước trong ao nuôi tôm nên được duy trì trong khoảng từ 7,2 – 7,8. Biên độ dao động cực đại trong ngày không quá 0,5. Kinh nghiệm sản xuất trong giai đoạn 2013 – 2015 cho thấy nếu kiểm soát pH ổn định trong khoảng này, cơ hội thành công rất cao. Để nâng độ pH, người nuôi tôm có thể dùng vôi. Để giảm độ pH thì đưa mật rỉ đường trực tiếp xuống ao hoặc sục khí với chế phẩm vi sinh tốt khoảng 24 – 36 giờ trước khi sử dụng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng hiệu quả tốt chỉ có nếu ao nuôi được đầu tư đầy đủ hệ thống quạt nước, giúp khuấy đảo và cung cấp đủ oxy.

Hàm lượng chất hữu cơ trong môi trường ao nuôi là yếu tố quan trọng cần được kiểm soát một cách chặt chẽ. Các nguồn nước bị ô nhiễm thường có hàm lượng chất hữu cơ cao, tạo điều kiện cho mầm bệnh phát triển và sẽ tiêu tốn nhiều oxy hòa tan. Giải pháp tốt nhất là sử dụng ao lắng. Khi các chất lơ lửng đã lắng xuống đáy, ta có thể bơm nước vào ao nuôi, chạy quạt liên tục vài ba ngày để các chất hữu cơ hòa tan hoặc chất lơ lửng có kích thước nhỏ có thể phân hủy hoàn toàn rồi hãy xử lý, diệt khuẩn bằng hóa chất. Xử lý nước khi hàm lượng chất hữu cơ còn cao luôn tốn kém hơn và không hiệu quả. Ngoài ra, sau mỗi vụ nuôi, lượng chất hữu cơ tồn tại ở đáy các ao đất là rất lớn. Cần phải cải tạo ao thật kỹ, phơi nắng 3 – 5 tuần để tia cực tím diệt hết khuẩn và các chất hữu cơ được oxy hóa, phân hủy hoàn toàn. Các cơ sở nuôi tôm thành công đều dành từ 6 – 8 tuần để cải tạo ao thật kỹ trước khi vào vụ nuôi chính để có thể nuôi liên tục 2 vụ. Thậm chí, có cơ sở lột cả bạt lót đáy ao và bờ ao để vệ sinh và lót lại trước khi tiến hành cấp nước, xử lý và thả tôm giống.

Nếu người nuôi tôm đã cải tạo ao kỹ, làm đúng qui trình, xử lý nước và tạo môi trường thuận lợi (chạy quạt, ủ phân bón và chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản để gây màu nước, phát triển thức ăn tự nhiên), ngăn chặn các vật trung gian lây nhiễm mầm bệnh vào ao thì tỉ lệ sống và tốc độ phát triển của tôm nuôi trong tháng đầu tiên thường chỉ phụ thuộc vào chất lượng tôm giống và mức độ chăm sóc mà cụ thể là cách cho ăn và quản lý thức ăn.

 Ngoại trừ các diễn biến bất thường của thời tiết, hầu hết các sự cố gặp phải trong ao nuôi ở các tháng nuôi thứ 2, 3 và sau đó đều có liên quan đến việc quản lý hàm lượng chất hữu cơ tích lũy trong môi trường. Ở tháng nuôi đầu, do tổng khối lượng của đàn tôm không lớn nên lượng thức ăn đưa xuống ao không nhiều. Thức ăn, nếu có dư thừa hoặc do tôm đột ngột giảm bắt mồi, cũng khó gây hậu quả nghiêm trọng và sẽ bị phân hủy để trở thành nguồn dinh dưỡng cho sự phát triển của tảo và các sinh vật khác trong ao. Tuy nhiên, theo thời gian và sự phát triển của tôm, lượng thức ăn đưa xuống ao từ tháng thứ 2 trở đi mỗi lúc một nhiều. Nguy cơ ô nhiễm là thường trực do thức ăn thừa, xác lột của tôm, do phân và các chất bài tiết mà tôm thải ra. Môi trường nước trở nên phì dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi cho tảo phát triển, làm cho độ pH biến động mạnh theo chiều hướng bất lợi. Sau đó tảo tàn có thể tiêu hao oxy hòa tan, sản sinh ra các độc tố gây yếu hoặc chết tôm nuôi. Nước mất màu, hàm lượng oxy hòa tan giảm mạnh, các chất khí độc bùng phát gây stress cho tôm. Lượng chất hữu cơ trong môi trường càng lớn, nguy cơ nhiễm độc NH3, NO2- hay H2S càng cao và có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Theo chu trình chuyển hóa, sau sự cố về tảo, sẽ là sự cố về NH3 hoặc H2S. Tiếp theo sẽ là sự cố về NO2-.

Để kiểm soát lượng chất hữu cơ, trước hết người nuôi tôm cần đầu tư hệ thống quạt nước, sục khí phù hợp và nâng dần công suất lên theo thời gian nuôi. Một ao nuôi tôm thẻ chân trắng mật độ 150 con/m2 theo thiết kế chuẩn, có diện tích khoảng 1.600 – 2.000 m2, muốn đạt hiệu quả cần được trang bị từ 4 – 5 giàn quạt nước, có công suất từ 2 – 3 mã lực/giàn. Trong tháng nuôi đầu tiên, chỉ cần chạy liên tục 1 giàn vào ban ngày và 2 giàn vào ban đêm là đủ. Nhưng từ tháng thứ 2 thì phải chạy liên tục 2 giàn vào ban ngày và toàn bộ vào ban đêm, đồng thời chuyển sang cho ăn bằng máy tự động để lượng thức ăn đưa vào môi trường duy trì ở mức thấp nhưng liên tục trong ngày. Nếu giám sát tốt (kiểm tra nhá, lặn xem đáy ao) thì sẽ hạn chế được nguy cơ cho ăn thừa. Từ tháng nuôi thứ 3 trở đi, nếu tôm phát triển tốt, lượng tôm trong ao nhiều, thì cần phải bổ sung thêm quạt nước hoặc sục khí đáy, đặc biệt là vào ban đêm hoặc những thời điểm tôm đang lột xác. Giàn quạt cần được bố trí sao cho có thể giúp gom tụ chất thải vào khu vực giữa ao để có thể siphon hết chất thải. Tần suất siphon tăng dần theo thời gian, từ 5 – 7 ngày/lần ở tháng thứ 1, đến 2 – 3 ngày/lần ở tháng thứ 2 và hàng ngày ở tháng thứ 3.

Tiếp theo, cần sử dụng chế phẩm vi sinh loại tốt hàng ngày để cải thiện tốc độ chuyển hóa của vật chất trong ao, giúp cho môi trường được sạch và ổn định. Sự phát triển của các lợi khuẩn có trong chế phẩm vi sinh còn ức chế các vi sinh vật gây bệnh. Để giảm chi phí và tăng hiệu quả sử dụng, người nuôi tôm cần tìm hiểu và thực hành qui trình nuôi tăng sinh khối lợi khuẩn đơn giản (Hình 2, xem chi tiết ở trang 73 tài liệu “Thực hành nuôi tôm thẻ chân trắng hiệu quả, bền vững” của Skretting Vietnam 2015). Lưu ý là hiệu quả của lợi khuẩn chỉ có nếu hàm lượng oxy hòa tan của nước trong ao được duy trì ở mức cao và môi trường nước được khuấy đảo thường xuyên.


Hình 4: Tôm nuôi phát triển tốt sau 43 ngày thả trong môi trường giàu oxy, chất lượng nước được quản lý tốt.

Về cơ bản, người nuôi cần phải dự báo tốt diễn biến của môi trường nước trong ao nuôi hoặc các thay đổi bất thường của thời tiết để có biện pháp can thiệp trước khi sự cố xảy ra hoặc can thiệp kịp thời khi chúng mới nảy sinh. Một khi môi trường nước ao đã trở nên bất lợi thì giải pháp tốt nhất là thay nước, kể cả sử dụng nguồn nước chưa kịp xử lý nếu việc thay nước là khẩn cấp nhằm làm giảm ngay hàm lượng của các chất gây ô nhiễm hoặc mật độ tác nhân gây bệnh. Làm tốt những điều nêu trên và luôn tâm niệm “nuôi tôm là nuôi nước”, chắc chắn thành công sẽ sớm đến và đến nhiều hơn với bạn.

PGS TS Hoàng Tùng

Tại sao việc trị bệnh cho tôm thường kém hiệu quả?


Ao tôm là cả gia tài nên khi tôm bệnh người nuôi lo lắng, mất ăn mất ngủ và không tiếc tiền để mua thuốc chữa trị. Nhưng ai nuôi lâu năm đều biết việc trị bệnh cho tôm rất tốn kém và hiệu quả không cao. Nếu gặp những bệnh nguy hiểm như đốm trắng thì chỉ còn cách thu khẩn cấp. Nhiều ao tôm tuy chữa được bệnh nhưng tôm hao hụt nhiều và cuối cùng cũng lỗ. Vậy làm thế nào để đối phó với bệnh tôm? Nên tập trung vào phòng bệnh hay chữa bệnh? Chúng ta hãy cùng nhau làm sáng tỏ vấn đề này.

Dịch bệnh khi thời tiết bất thường

Khác với trâu bò heo gà, nhiệt độ cơ thể tôm không ổn định mà thay đổi theo nhiệt độ môi trường nước. Ao tôm ở ngoài trời nên khi thời tiết bất thường thì người nuôi cũng bất an, tôm trở nên yếu, dễ nhiễm bệnh.

Nếu nắng nóng kéo dài (nhiệt độ nước trên 32oC): Tôm bắt mồi nhanh nhưng thải nhiều phân sống làm nước ô nhiễm. Vi khuẩn có hại hoạt động mạnh thường gây ra dịch bệnh phân trắng.

Vào mùa lạnh (nhiệt độ nước dưới 25oC): Tôm bắt mồi yếu, thậm chí ngưng ăn. Virus hoạt động mạnh thường gây ra dịch bệnh đốm trắng.

Biến đổi khí hậu dẫn đến thời tiết biến động bất thường là một trong những nguyên nhân chính khiến việc nuôi tôm ngày càng khó khăn.

Khó phát hiện khi tôm mới phát bệnh

Tôm, đặc biệt là tôm sú, chủ yếu sống ở đáy ao. Bình thường, người nuôi ít có cơ hội quan sát tôm. Khi vừa thả tôm, màu nước tương đối nhạt nhưng do tôm quá nhỏ nên rất khó quan sát. Từ tháng nuôi thứ 2, tuy tôm đã lớn hơn nhưng do màu nước đậm dần khiến người nuôi rất khó phát hiện lúc tôm chớm bệnh. Lý do là những con tôm yếu và chớm bệnh thường trốn vào khu vực giữa ao, gần khu vực chất thải. Còn đến khi người nuôi phát hiện thấy tôm bơi lội lờ đờ trên mặt nước hay tấp vào bờ, nhá (vó) thì mọi chuyện đã quá muộn. Lúc này, đàn tôm đã bệnh nặng, nhiều con chết đáy, đàn tôm giảm ăn và chết nhanh.

Lây lan nhanh

Đầu tiên, người nuôi không thể vớt bỏ tôm bệnh hay tôm chết ra khỏi đàn tôm (chết đáy). Tôm khỏe buộc phải sống chung với tôm nhiễm bệnh và tôm chết. Xác tôm là thức ăn ưa thích của tôm khỏe khiến mầm bệnh lây lan. Ngoài ra, việc sử dụng máy quạt nước cung cấp ôxy và gom chất thải nhưng cũng nhanh chóng mang mầm bệnh đến khắp nơi trong ao.

Sức đề kháng kém

Tôm là động vật bậc thấp, không có hệ miễn dịch đặc hiệu nên khả năng đề kháng mầm bệnh kém, không có vaccine phòng bệnh. Tôm yếu rất dễ bị bệnh virus (đốm trắng, Taura) và vi khuẩn (Vibrio).

Thuốc không vào được tôm bệnh

Tôm bệnh thường bỏ ăn. Thuốc được trộn vào thức ăn sẽ không vào được cơ thể tôm bệnh. Vì thế, sử dụng thuốc chủ yếu là phòng bệnh cho tôm vừa chớm bệnh hay tôm còn khỏe.

Tác nhân cơ hội đồng loạt tấn công

Khi tôm bệnh, các mầm bệnh cơ hội đồng loạt tấn công khiến tôm yếu rất nhanh. Nghĩa là hầu hết tôm bệnh đều nhiễm vi khuẩn, kí sinh trùng, có thể virus và chịu tác động môi trường xấu (khí độc, ôxy thấp…) nên việc xác định nguyên nhân nào chính gây bệnh tương đối khó khăn.

Như vậy, việc phát hiện tôm bệnh thường đã trễ và việc trị bệnh cho tôm thường kém hiệu quả. Ngoài ra, khi tôm bệnh quá nặng người nuôi thường phải thu hoạch khẩn cấp trong lúc đang sử dụng thuốc và hóa chất, ảnh hưởng đến vấn đề xuất khẩu. Vì vậy, phòng bệnh là vấn đề có ý nghĩa sống còn, quyết định sự thành bại trong nuôi tôm.

Cách xử lý những ao tôm bệnh

Nếu chẳng may ao có tôm bị bệnh, việc phát hiện càng sớm thì cơ hội trị bệnh càng cao và cách ứng phó hiệu quả là:

Tăng cường quạt nước:

Cung cấp nhiều ôxy cho tôm, tạo môi trường thuận lợi cho vi sinh phân hủy chất thải và giải phóng khí độc.

Cắt giảm mạnh thức ăn thừa:

Giảm áp lực chất thải gây ô nhiễm môi trường ao, giảm khí độc tích tụ, giảm mật độ vi khuẩn gây bệnh phát triển.

Sử dụng chế phẩm sinh học

Chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản luôn góp phần quan trọng giúp tăng sức đề kháng cho tôm và đẩy lùi dịch bệnh. Do vậy, lựa chọn những chế phẩm vi sinh học đúng chất lượng, có thương hiệu sẽ hỗ trợ rất nhiều để phòng và trị bệnh cho tôm.

chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản

Chữa bệnh đúng thuốc, đúng liều, đúng thời gian:

Tùy loại thuốc mà sử dụng buổi sáng hay buổi chiều (xử lý vi sinh vào giữa buổi sáng), tùy thời gian đào thải ra cơ thể tôm mà sử dụng bao nhiều lần (sau 6 giờ thì cứ 6 giờ bổ sung 1 lần theo các cữ ăn; sau 12 giờ thì bổ sung vào 1 cữ sáng và 1 cữ chiều; sau 24 giờ thì bổ sung vào 1 cữ ăn trong ngày).

Tăng cường sức đề kháng và phục hồi biến dưỡng cho tôm:

Bổ sung vitamin C, hoạt chất butaphosphan, các vitamin và khoáng chất khác (Grow Shrimp).

Không thay nước từ nguồn bên ngoài:

Tránh lây lan và tạp nhiễm thêm mầm bệnh.

Kết hợp cải thiện chất lượng môi trường:

Đây là việc cấp thiết trong can thiệp xử lý ao tôm bệnh. Sử dụng EcoClean Aqua - Vi sinh xử lý nước ao nuôi tôm để phân hủy chất thải, EcoClean AM - Vi sinh xử lý khí độc; giúp cho nước ao tăng hệ đệm, ổn định độ kiềm, pH và tảo.

Nguồn: Tám Miền Tây t/h.

Bài viết được xem nhiều