Hiển thị các bài đăng có nhãn tin tức thủy sản. Hiển thị tất cả bài đăng

[Cần Giuộc] Có hơn 25% diện tích nuôi tôm bị nhiễm bệnh


Tính đến nay, nông dân huyện Cần Giuộc đã thả 190 ha tôm năm 2018, tập trung ở các xã vùng hạ của huyện. Tuy nhiên, do tình hình thời tiết đang diễn biến phức tạp, chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm lớn nên có hơn 25% diện tích nuôi bị nhiễm bệnh đốm trắng, hoại tử gan tụy, đốm đen … Bệnh tập trung nhiều ở giai đoạn từ 20 đến 45 ngày tuổi.

Theo dự báo của các ngành chuyên môn huyện, dịch bệnh trên tôm sẽ còn diễn biến phức tạp; do đó bà con nông dân phải thận trọng, xử lý ao đầm đúng kỹ thuật, chọn con giống đảm bảo chất lượng trước khi thả nuôi vụ nuôi mới. Người nuôi tôm phải thường xuyên theo dõi tôm nuôi, tình hình thời tiết, kết quả quan trắc môi trường vùng nuôi trên địa bàn để có biện pháp xử lý kịp thời.

Theo: Phương Cảnh - Thất Huy Báo Long An

Thách thức thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ

Là một trong những thị trường trọng điểm cho xuất khẩu nông sản Việt Nam, nhưng Mỹ vẫn được dự báo là còn không ít khó khăn nhất là với ngành thủy sản trong năm 2018 này.

Tín hiệu khả quan

Thống kê của Bộ NN&PTNT, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy, sản tháng 2 năm 2018 ước 2,6 tỷ USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu 2 tháng đầu năm đạt 6,1 tỷ USD, tăng 30,2% so cùng kỳ năm 2017. Cụ thể, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước 3,3 tỷ USD, tăng 27,8%; thủy sản ước gần 1,2 tỷ USD, tăng 29,5%; các mặt hàng lâm sản chính ước 1,43 tỷ USD, tăng 28,5%; nhóm các mặt hàng khác đạt 237 triệu USD, tăng 107,1%.

Năm 2017, ngành nông nghiệp ghi nhận mức tăng trưởng khá với hơn 36 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu, tăng 13% so năm 2016,  trong đó  nhiều dấu mốc mới như xuất khẩu thủy sản lần đầu tiên vượt 8 tỷ USD; góp phần đưa thặng dư tuyệt đối của ngành nông nghiệp đạt con số 8,55 tỷ USD, tăng hơn 1,1 tỷ USD so năm 2016, với 10 nhóm hàng xuất khẩu trên 1 tỷ USD.

Theo Hiệp hội Chế biến Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc vẫn là 4 thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam, chiếm 55,3% tổng giá trị xuất khẩu.

Rào cản tại thị trường Mỹ

Tuy thuộc top những thị trường nhập khẩu hàng đầu sản phẩm thủy sản Việt Nam; nhưng xuất khẩu thủy sản nói chung sang thị trường Mỹ dự báo sẽ còn gặp nhiều khó khăn trong năm 2018.

Cụ thể là Chương trình giám sát hải sản nhập khẩu (SIMP) chống lại các hoạt động khai thác hải sản bất hợp pháp (IUU) và gian lận hải sản vào nước này được triển khai từ đầu năm 2018, sẽ khiến thủy sản xuất khẩu sang thị trường này bị kiểm soát nguồn gốc chặt hơn. Chương trình này được thiết lập dành cho 13 loài nằm trong nguy cơ bị đánh bắt trong đó có cá ngừ. Cá ngừ lại là sản phẩm cá biển chủ lực của Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ. Việc đưa ra những rào cản kể trên theo VASEP là để các nhà nhập khẩu Việt Nam nhận diện rõ những thách thức mà họ sẽ phải đối mặt trong hoạt động sản xuất chế biến và xuất khẩu của mình. Từ đó cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định một cách có trách nhiệm, bền vững đối với thị trường này.

Mặt khác, thủy sản vẫn là mặt hàng đang chịu nhiều áp lực nhất khi xuất khẩu sang Mỹ; bởi thị trường này liên tục đưa ra các rào cản về thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp. Đơn cử, tháng 9/2017, Bộ Thương mại Mỹ (USDC) công bố Kết luận sơ bộ đợt rà soát hành chính thuế chống bán phá giá lần thứ 13 (POR13) đối với sản phẩm cá tra - basa nhập khẩu từ Việt Nam. Theo đó, sau khi Mỹ tiến hành kiểm tra 100% lô hàng cá tra Việt Nam từ ngày 2/8/2017, USDC đã quyết định áp mức thuế 2,39 USD/kg, cao gấp 3 lần mức thuế suất riêng lẻ trong kỳ xem xét hành chính lần thứ 12. Xuất khẩu cá tra sang Mỹ năm 2018 có thể sẽ giảm khoảng 10%. Ngày 12/1/2018, Việt Nam đã đệ trình khiếu nại lên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), liên quan đến cách Mỹ đánh thuế mang tính trừng phạt các mặt hàng cá fillet Việt Nam vì cho rằng, Mỹ đã vi phạm các quy định của WTO trong cách áp thuế lên cá fillet Việt Nam. Mỹ sẽ có thời gian 60 ngày để giải quyết khiếu nại hoặc Việt Nam có thể yêu cầu WTO phân xử.

Để tháo gỡ những khó khăn trên, Bộ Công thương đang tích cực hỗ trợ các hiệp hội, doanh nghiệp cập nhật thông tin, ứng phó với các vụ việc hàng hóa xuất khẩu bị điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại, thông tin cảnh báo về cách phòng tránh, xử lý các vụ kiện phòng vệ thương mại nhằm đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp. Hiện, Bộ Công thương cũng đang phối hợp cùng Bộ NN&PTNT triển khai các chương trình hành động về an toàn thực phẩm, đặc biệt là tổ chức sản xuất, kinh doanh sản phẩm nông nghiệp, thực phẩm theo chuỗi liên kết giữa người sản xuất với doanh nghiệp và thị trường. Đồng thời, tăng cường nâng cao hoạt động thực thi Luật An toàn thực phẩm, Luật Thủy sản…

Tuy nhiên, cùng với các giải pháp tháo gỡ khó khăn thị trường của các cơ quan chức năng, doanh nghiệp cần có giải pháp nâng cao sức cạnh tranh và chất lượng sản phẩm, đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn thị trường nhằm giữ vững và mở rộng thị phần xuất khẩu.

Nguồn: Bảo Bình - Tạp chí Thủy sản Việt Nam.

Tiêu chuẩn cơ sở phát hiện virus đốm trắng

Tiêu chuẩn này được Cục Thú y ban hành vào ngày 23/2/2018, tại Quyết định số 117/QĐ-TY-TS ban hành Tiêu chuẩn cơ sở.


Cụ thể, ban hành Tiêu chuẩn cơ sở quy trình phát hiện virus gây hội chứng đốm trắng ở tôm bằng kỹ thuật Real-time PCR; Ký hiệu: TCCS 01:2018/TY-TS. Áp dụng tại tất cả các phòng thử nghiệm của các đơn vị trực thuộc Cục Thú y. Chi cục Thú y/Chi cục Chăn nuôi và Thú y và các đơn vị liên quan căn cứ điều kiện phòng thử nghiệm của đơn vị tham khảo, áp dụng Tiêu chuẩn cơ sở này cho phù hợp, hiệu quả. Tiêu chuẩn này thay thế Tiêu chuẩn cơ sở quy trình phát hiện virus gây bệnh đốm trắng ở tôm bằng kỹ thuật Real-time (Ký hiệu: TCCS 01:2014/TY-TS) tại Quyết định số 934/QĐ-TY-TS ngày 12/12/2014 của Cục trưởng Cục Thú y. Quyết định này có hiệu lực thi hành từ ngày ký.

Theo: Bảo Hân.

'Lênh đênh' nghề nuôi cá bớp

“Ngày biển lặng đã đành, phải khi sóng to gió lớn, ngồi một chỗ còn khó, huống hồ đi lại để chăm sóc cá. Nhọc, nhưng năm nào cá bán được giá thì sống khỏe” - Chị Phan Thị Kim Sang, một trong những người đầu tiên đến đảo Hòn Chuối nuôi cá bớp chia sẻ.

Những bè cá bớp. Ảnh minh họa.

Đổi đời nhờ cá bớp

Đến đảo Hòn Chuối (huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau), tôi thực sự bất ngờ khi được thưởng thức các món ăn từ cá bớp do cán bộ, chiến sĩ (CBCS) Đồn Biên phòng Hòn Chuối chế biến. Miếng cá nạc, giòn thơm, vị ngọt tự nhiên không giống với món ăn nào khác. Đĩa lòng cá hấp dẫn với những miếng dạ dày giòn sần sật, trứng cá, gan cá thơm, mềm và không có mùi tanh. Thú vị hơn cả, khi các chiến sĩ cho biết, đây là sản phẩm cá bớp do người dân nuôi ở chính đảo Hòn Chuối. Không chỉ là thực phẩm bổ dưỡng, cá bớp còn đang giúp nhiều hộ dân vốn ăn bữa nay lo bữa mai, vươn lên làm giàu.

Theo Thiếu tá Nguyễn Văn Hệ, Phó Đồn trưởng Đồn Biên phòng Hòn Chuối, năm 2010, một số hộ dân ở thị trấn Sông Đốc, thậm chí ở tận Kiên Giang đã ra đảo Hòn Chuối nuôi loài cá này. Không ngờ, vùng biển quanh đảo lại rất phù hợp với cá bớp. Cá lớn nhanh, ít dịch bệnh, chất lượng thịt cá thơm ngon đặc biệt. Từ đây, nhiều người dân ở đảo Hòn Chuối cũng học hỏi kinh nghiệm, làm hộc để nuôi cá. Một số người còn bỏ cả nghề đi biển để tập trung nuôi cá bớp. Có thời điểm, quanh đảo Hòn Chuối có hơn 50 hộ dân nuôi cá. Với thời gian nuôi khoảng 6 – 7 tháng, cá đạt trung bình 8-10kg thì xuất bán, mỗi hộc cá lời từ 30 – 50 triệu đồng.

Bị hấp dẫn bởi các món ăn chế biến từ cá bớp, lại nghe thông tin cá bớp đang có giá bán tới 160.000 đồng/kg mà không có để bán, nên sáng hôm sau, tôi háo hức theo chân CBCS Đồn Biên phòng Hòn Chuối đến với những bè nuôi cá bớp quanh đảo. Đón chúng tôi lên bè cá bằng nụ cười thân thiện, chị Phan Thị Kim Sang và chồng là anh Lê Văn Út, cho biết: “Vợ chồng tôi là một trong số hộ đầu tiên ra đảo Hòn Chuối nuôi cá. Đến nay, gia đình đã có 20 hộc cá”.

Theo cách tính của chị Sang, nếu trung bình mỗi hộc nuôi khoảng 200 con, thì nguyên tiền cá giống đã gần 30 triệu đồng/hộc. “Đợt vừa rồi, gia đình mua 1.500 con giống, với số tiền hơn 200 triệu đồng. Mang về đến bè, cá chết bớt, còn chưa đến 1.200 con”. Cũng theo chị Sang, sở dĩ, cá giống đắt như vậy bởi đây hoàn toàn là cá tự nhiên, được các ghe lớn đánh bắt ở vùng khơi mang về. Quá trình vận chuyển về đến đảo, một số con bị chết.

Vừa dẫn tôi đi xem những hộc cá nối dài, bên trong là vô số những con cá to bằng cổ tay, chị Sang vừa kể: “Cá bớp được nuôi hoàn toàn bằng cá cào, cá lưới bao, ngoài ra không cho ăn thêm bất kỳ thức ăn nào khác. Hiện, 1.500 con cá nhà tôi tiêu tốn 300kg thức ăn/ngày, tương đương 2 triệu đồng. Thời điểm gia đình nuôi nhiều nhất là 7.000 con, chi phí thức ăn hết mười mấy triệu đồng/ngày. Cái hay là cá bớp có thể nhịn ăn vài ngày vẫn sống khỏe”.

Năm 2017, khi cá bớp đạt giá cao nhất từ trước đến nay (160.000 đồng/kg), không ít hộ nuôi cá bớp ở Hòn Chuối bội thu hơn cả mong đợi. Ngoài những gia đình có thu nhập xấp xỉ tiền tỉ như gia đình anh chị Sang -  Út, các hộ khác như ông Tư Phương,  Kim Ngọc Tồn, Kim Ngọc Tuấn, Kim Ngọc Của... đều có thu nhập từ vài chục đến vài trăm triệu đồng.

Bám biển, trông cá, nuôi hi vọng

Có vượt biển đến với các bè cá, nghe người nuôi cá bớp kể chuyện mới hay, để có những lứa cá chất lượng, năng suất cao, người nuôi cá cực khổ trăm bề. “Sóng yên thì khỏe; sóng to thì cực, các hộc cá vì bị giật, mà di chuyển để chăm sóc cá gặp rất nhiều khó khăn” - Chị Sang chia sẻ trong lúc cố gắng giữ để tôi có thể đứng vững được trên các hộc cá liên tục tròng trành bởi sóng gió. Làm việc cách đất liền cả 3 giờ chạy tàu, cuộc sống của những người nuôi cá bớp ở Hòn Chuối gói gọn trên những con tàu, 24 giờ mỗi ngày là 24 giờ lênh đênh cùng sóng gió. Tổ ấm của họ chính là những con tàu với không chỉ chỗ ngủ, bếp nấu ăn, mà còn có cả ti vi, máy phát điện, dàn năng lượng mặt trời.

Từ thị trấn Sông Đốc, anh Võ Văn Phong ra đảo Hòn Chuối nuôi cá bớp đã được 6 năm. Một mình xoay xở với 6 hộc cá, vui buồn ra sao, anh đã nếm đủ. “Cá khỏe không sao, thi thoảng cá bệnh, lo muốn chết vì bao nhiêu vốn liếng đổ cả vào đây, chỉ riêng mỗi điều trị bệnh lở loét thân cá bớp đã tốn biết bao nhiêu là chi phí...” – Anh cho hay. Minh chứng cho lời anh Phong nói là câu chuyện về hơn chục hộ dân vay tiền để nuôi cá bớp đúng năm bị ảnh hưởng từ vụ ô nhiễm môi trường ở Formosa Hà Tĩnh (năm 2016), cá bán không ai mua, người nuôi điêu đứng, nhiều hộ vay tiền để đầu tư nuôi cá phút chốc trắng tay.

Vẫn còn nhớ như in nỗi buồn của người nuôi cá bớp khi ấy, ông Tư Phương, Tổ trưởng Tổ tự quản ở đảo Hòn Chuối, cũng là một trong những người đầu tiên nuôi cá bớp ở đây cho hay: “Năm 2016, có đến hơn chục hộ thất bại vì nuôi cá bớp đã bỏ lại nhà cửa trên đảo để đi vào Bình Dương mưu sinh, kiếm tiền trả nợ. Năm nay, gia đình ông có 10 hộc cá, nhưng ông vẫn chưa thả cá giống hết. Vừa thả, vừa nghe ngóng xem sao”.

Ngồi trò chuyện cùng tôi trước cửa căn nhà dựng trên ghềnh đá, trong tiếng sóng xô, bọt tung trắng xóa..., ông Tư Phương trầm ngâm: “Những năm đầu nuôi cá bớp, người nuôi chỉ lo xoay xở tiền để đầu tư mà ít phải lo lắng về dịch bệnh, nhưng giờ đây, hiện tượng cá bị mù mắt, bỏ ăn, hay cá bị sứa cào lở da xảy ra ngày càng nhiều. Mới đây, người nuôi cá bớp ở Hòn Chuối đã “cầu cứu” Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Cà Mau hỗ trợ, đưa các chuyên gia nuôi trồng thủy sản ra đảo khảo sát tìm nguyên nhân và đưa ra giải pháp khắc phục”. Theo ông Phương, rất có thể, tình trạng cá bị bệnh mù mắt là do nguồn nước bị ô nhiễm vì số lượng hộ nuôi cá tăng lên so với mấy năm trước, mật độ các bè cá cũng dày hơn. Bên cạnh đó, việc sứa biển bám vào các hộc nuôi cũng có thể là nguyên nhân khiến cá bị ghẻ lở, mù mắt.

Như nhiều công việc mưu sinh khác, việc nuôi cá bớp ở Hòn Chuối, nói theo cách của người dân nơi đây, cũng còn tùy hên-xui. Vậy nên, ngày lại ngày, những người nuôi cá bớp vẫn miệt mài chia sẻ cho nhau kinh nghiệm, chia cho nhau cả cân gạo, mớ rau trong ngày biển động, gom góp hi vọng về những lứa cá năng suất, được giá.

Theo: Mai Hoàng - Báo Biên Phòng / Tám Miền Tây t/h.


Khánh Hòa: Đưa nghề nuôi tôm hùm phát triển bền vững


Khánh Hòa là một trong những tỉnh có nghề nuôi tôm hùm lớn nhất cả nước với hơn 23.300 lồng tôm hùm được thả nuôi hằng năm, chiếm đến hơn 40% tổng số lồng nuôi tôm hùm của cả nước. Nghề nuôi tôm hùm ở Khánh Hòa mang lại giá trị kinh tế cao nhưng lại chưa có thương hiệu, lại thiếu sự liên kết giữa người nuôi và doanh nghiệp chế biến - xuất khẩu theo chuỗi giá trị. Hàng năm, giá tôm hùm thường biến động theo mùa, việc tiêu thụ chủ yếu dưới dạng tươi sống ở trong nước và xuất khẩu sang nước bạn theo đường tiểu ngạch.

Vấn đề con giống đang được đặt ra cấp thiết khi thực hiện tái cơ cấu nghề nuôi tôm hùm ở Khánh Hòa. Người nuôi hiện gặp khó khăn về nguồn cung cấp con giống chiếm 60 đến 70%. Vào thời điểm được mùa, giá tôm hùm giống dao động từ 150.000 - 200.000 đồng/con.

Để bù đắp lượng tôm hùm giống còn thiếu, hàng năm Khánh Hòa phải nhập tôm hùm giống từ các tỉnh khác và một số nước trong khu vực Đông Nam Á theo đường tiểu ngạch. Hiện, nguồn tôm hùm giống khai thác tự nhiên cũng không ổn định do phụ thuộc vào mùa vụ, diễn biến thời tiết, thay đổi dòng chảy và môi trường biển. Bên cạnh đó, sau khi thu hoạch, tôm hùm cũng chỉ sống được khoảng bảy đến mười ngày nếu được chăm sóc tốt, do vậy các hộ nuôi mong muốn có sự kết hợp chặt chẽ từ khâu thu hoạch đến vận chuyển và tiêu thụ. Ngoài ra, người nuôi tôm hùm chưa có hiệp hội để bảo vệ quyền lợi cho mình, nhất là về giá cả và chia sẻ kinh nghiệm.

Nhiều hộ nuôi cho rằng, vấn đề cấp thiết nhất hiện nay là xây dựng mối liên kết giữa người nuôi tôm hùm với các đơn vị cung cấp yếu tố đầu vào như con giống, thức ăn… và doanh nghiệp thu mua, sơ chế, chế biến, kinh doanh tôm hùm và sản phẩm có nguồn gốc từ tôm hùm. Ngoài ra, cần đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ cao để sản xuất nhân tạo tôm hùm giống, đồng thời ban hành các tiêu chí về tôm hùm giống để kiểm soát số lượng, chất lượng, đầu tư xây dựng điểm ương tôm hùm giống tập trung trên bể nhằm kiểm soát dịch bệnh và nâng cao chất lượng.

Thực hiện tái cơ cấu ngành thủy sản, trong đó có nghề nuôi tôm hùm, ngành thủy sản Khánh Hòa cần sớm tập trung hoàn thiện quy hoạch chi tiết mặt nước để nuôi tôm hùm ở các vịnh, đầm; xây dựng rạn nhân tạo ở vịnh Nha Trang nhằm bảo vệ nguồn tôm hùm giống trong tự nhiên. Cần tổ chức nuôi tôm hùm theo quy trình VietGap, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm kết hợp quảng bá để đăng ký thương hiệu. Thu hút doanh nghiệp tham gia xây dựng hệ thống phân phối tôm hùm tươi sống bao gồm các điểm thu mua, lưu giữ trước khi giao cho các cơ sở phân phối để tạo sản phẩm tôm sạch, khỏe, đảm bảo chất lượng.

Văn Thọ

Hiệu quả và giải pháp phát triển bền vững mô hình nuôi tôm-lúa


Nuôi tôm-lúa đã là nghề góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho nông dân nhiều vùng ven biển của đồng bằng sông Cửu Long. Hiện tại, hình thức nuôi chủ yếu là luân canh 1 vụ tôm- 1 vụ lúa. Diện tích sản xuất luân canh tôm-lúa trong khu vực tăng nhanh, đến nay ước đạt 160.000 ha, diện tích tiềm năng trên 200.000 ha, năng suất bình quân đạt từ 320-500 kg/ha, phần lớn tập trung tại các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau. Bạc Liêu, Tiền Giang, Sóc Trăng, Bến Tre…

Mô hình nuôi tôm- lúa mang lại hiệu quả kinh tế cao so với độc canh cây lúa trên cùng diện tích, trong thời gian qua đã phát triển khá ổn định và thể hiện tính bền vững. Năng suất nuôi được cải thiện qua từng năm do người dân đã có nhiều kinh nghiệm và áp dụng một số tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Theo đánh giá của các tỉnh và các cơ quan nghiên cứu thì đây là một mô hình mang tính bền vững và có hiệu quả kinh tế.

Nuôi tôm - lúa có nhiều lợi ích: Giảm chi phí làm đất, giảm phân bón, giảm thuốc bảo vệ thực vật, tạo sản phẩm lúa và tôm an toàn thực phẩm, đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng, mô hình nuôi bền vững, thân thiện môi trường. Mô hình tôm lúa nuôi với mật độ thưa nên tôm nhanh lớn, ít dịch bệnh. Do cấy lúa cải tạo được đất đáy, tạo môi trường tốt cho tôm phát triển.

Hiệu quả triển khai mô hình tôm lúa tại đồng bằng sông Cửu Long

Trong thời gian qua, bên cạnh việc phát triển các mô hình nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã rất quan tâm đến các mô hình nuôi tôm tại Đồng bằng sông Cửu Long theo hướng bền vững, trong đó có mô hình nuôi luân canh tôm lúa. Từ năm 2011 đến nay, thông qua các chương trình Khuyến nông Quốc gia và các chương trình khuyến nông tại địa phương đã tổ chức các lớp tập huấn hướng dẫn tiến bộ khoa học kỹ thuật nuôi tôm- lúa và xây dựng các mô hình trình diễn để người dân có điều kiện được tham quan, học tập trao đổi kinh nghiệm sản xuất.

Năm 2011-2013, Bộ đã phê duyệt dự án khuyến ngư “Phát triển nuôi tôm lúa” do Trung tâm Khuyến nông quốc gia phối hợp Trung tâm Khuyến nông Sóc Trăng thực hiện. Dự án được thực hiện với quy mô 4 tỉnh: Cà Mau, Kiên Giang, Bạc Liêu và Sóc Trăng, với diện tích 190 ha và 190 hộ dân tham gia.

Kết quả triển khai cho thấy, việc trồng lúa trên đất nuôi tôm không xảy ra xung đột trong quá trình sản xuất, mà là mô hình thông minh. Vào mùa khô, nước ngoài sông rạch mặn thì lấy vào nuôi tôm, khi mưa xuống nước ngọt thì đưa vào trồng lúa. Trong hệ thống canh tác tôm- lúa, sau khi nuôi một vụ tôm thì tiến hành trồng một vụ lúa, khi đó những chất thải hữu cơ dưới đáy ao sau khi thu hoạch tôm sẽ làm cho ruộng lúa màu mỡ, người trồng lúa chỉ bón một lượng phân nhỏ là đáp ứng nhu cầu phát triển của cây. Bên cạnh đó, để tránh ảnh hưởng đến tôm nuôi, người dân phải áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp, ít sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (giảm 70-80%). Ngược lại, nuôi tôm sau vụ lúa thì nền đáy ao đã được khoáng hóa nên các chất độc hại giảm, hạn chế tình trạng vùng nuôi tôm bị lão hóa do đất bị ngập mặn lâu, đồng thời cắt phần mầm bệnh trong ao nuôi, môi trường ổn định, khi nuôi tôm không cần sử dụng nhiều thuốc, hóa chất, hạn chế chi phí sản xuất, lợi nhuận tăng cao.

Theo đánh giá của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, hệ thống canh tác tôm lúa hạn chế sử dụng hóa chất độc hại, sử dụng tài nguyên nước hợp lý theo từng thời điểm và mùa trong năm, thích ứng với điều kiện tự nhiên, thời tiết khí tượng thủy văn, tạo ra sản phẩm sạch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phù hợp với sản xuất nông nghiệp, từ đó nâng cao giá trị hàng hóa, tăng lên từ 2-3 lần so với chỉ cấy lúa. Ngoài ra, mô hình này giải quyết được vấn đề ô nhiễm nguồn nước, lão hóa vùng nuôi tôm, giảm thiểu rủi ro dịch bệnh, tạo điều kiện giúp nghề nuôi phát triển bền vững.

Tuy nhiên, bên cạnh nhiều lợi ích thì mô hình này vẫn còn bộc lộ một số bất cập: Là mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến nên công trình chưa đảm bảo, bị rò rỉ, bị nhiễm phèn và không giữ được nước. Kỹ thuật về nuôi tôm-lúa của bà con còn hạn chế, chủ yếu nuôi theo kinh nghiệm nên năng suất bấp bênh và thiếu ổn định. Môi trường ngày càng ô nhiễm, độ mặn biến động lớn, thời tiết biến đổi gây biến động môi trường lớn. Hiện nay các vùng sản xuất tôm lúa nằm xen trong các khu nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh, hệ thống thủy lợi phục vụ mô hình tôm lúa chưa đồng bộ, vấn đề quản lý nguồn nước, dịch bệnh chưa chặt chẽ, còn thiếu sự liên kết, hợp tác trong người dân ở từng khu vực và giữa các bên có liên quan, để phát triển mô hình tôm lúa.

Ngoài ra, tôm giống chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, chất lượng, thời gian theo thời vụ không được khuyến cáo, người dân ít quan tâm đến chất lượng tôm giống. Sản xuất lúa phụ thuộc nhiều vào thời tiết và nguồn nước ngọt, chưa có giống lúa đặc thù cho từng vùng sinh thái khác nhau, nên năng suất, chất lượng lúa thấp. Nông dân thiếu vốn sản xuất trong khi giá vật tư nông nghiệp không ổn định và cao so với khả năng đầu tư của nông hộ.

Giải pháp phát triển bền vững

Trước những lợi ích và bất cập của mô hình nuôi tôm-lúa, Trung tâm Khuyến nông quốc gia đã đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển bền vững nghề này:

Tăng cường công tác quản lý chất lượng tôm giống, xét nghiệm và cho kết quả nhanh bệnh dịch trên tôm. Đầu tư nghiên cứu lai tạo ra các giống lúa có khả năng chịu mặn, chịu phèn tốt, kháng bệnh, năng suất và chất lượng tốt.

Để mô hình luân canh tôm lúa tiếp tục phát triển mạnh và bền vững, trong thời gian tới cần quy hoạch hợp lý các vùng luân canh, để có các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng phù hợp và chính sách tín dụng hỗ trợ sản xuất, khuyến khích sản xuất theo hướng liên kết, hợp tác. Nâng cấp các công trình nuôi trồng thủy sản, đặc biệt đối với hình thức nuôi luân canh tôm lúa, cần gia cố bờ bao, mương bao để đảm bảo ứng phó với hiện tượng biến đổi khí hậu, nước biển dâng trong thời gian tới.

Tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật, chỉ nên nuôi 1 vụ tôm, 1 vụ lúa/năm. Mật độ nuôi chỉ nên duy trì dưới 8 con/m2, diện tích mương nuôi tôm chiếm không quá 30% tổng diện tích.

Tăng cường tập huấn kỹ thuật, nhất là quản lý môi trường nước và phòng trị bệnh trên tôm nuôi. Tổ chức các điểm trình diễn mô hình tôm- lúa cho nông dân tham quan, học hỏi kinh nghiệm, nhằm tăng hiệu quả sản xuất. Người dân cần liên kết và hợp tác trong sản xuất, để cải tạo đất, thả tôm giống, gieo cấy lúa theo lịch thời vụ.

Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về lợi ích và hiệu quả của hình thức nuôi tôm lúa.

Triển vọng mô hình nuôi tôm hữu cơ hiệu quả cao


Sản xuất hữu cơ là một trong những ngành sản xuất xanh có thể mang lại giá trị cho các sản phẩm của Việt Nam như tôm hữu cơ trên thị trường thế giới. Đồng thời, việc nuôi tôm theo hướng hữu cơ cũng hỗ trợ trong tiến trình bảo vệ bền vững dải ven biển của ĐBSCL.

Mô hình nuôi tôm hữu cơ

Hiện nay, mô hình nuôi tôm hữu cơ được một số tỉnh áp dụng như Cà Mau, TP Hồ Chí Minh đem lại hiệu quả bền vững.

Tại  TP Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Văn Nam, Chủ tịch UBND xã An Thới Đông (huyện Cần Giờ), cho biết: Vài năm trước, nhiều hộ nuôi tôm sú trong xã bị thua lỗ do môi trường nước ô nhiễm, bà con đã chuyển sang nuôi tôm hữu cơ, phát huy tốt lợi thế, mang lại hiệu quả thiết thực.

Xã An Thới Đông hiện có diện tích nuôi tôm sú khoảng 1.300 ha, trong đó nhiều hộ tự học hỏi kinh nghiệm nuôi tôm sú hữu cơ an toàn với diện tích từ 5 đến 7ha/hộ. Anh Đỗ Mạnh Hùng, trú tại ấp Doi Lầu, một chủ trang trại đang đầu tư ao tôm sú hữu cơ rộng 5ha, chia sẻ: “Hằng tuần, chúng tôi đều được cán bộ kỹ thuật của xã và Hội Nông dân hướng dẫn phương pháp chăm sóc tôm. Trung bình một héc ta, gia đình tôi đầu tư làm sạch ao, trải bạt xung quanh, xử lý nước… hết khoảng 20 đến 25 triệu đồng, tùy thời vụ. Song, cách nuôi hữu cơ bảo đảm cho con tôm phát triển ổn định, không bị dịch bệnh lây lan. Vì thế, cứ mỗi vụ tôm, thường 6 - 7 tháng/vụ, gia đình tôi thu hoạch được tôm sú loại 20 - 25 con/kg với giá khoảng 180.000 đồng/kg. Lãi suất cao hơn 10.000 đồng/kg so với cách nuôi thường”.

Nuôi tôm hữu cơ và nuôi tôm thông thường

có những điểm khác so với nuôi tôm sú theo phương pháp thông thường. Nguồn nước và môi trường là quan trọng nhất. Nguồn nước trước khi đổ vào ao tôm phải là nước biển sạch, có thả một số loại cá để giữ sinh thái ổn định. Sau ít ngày nước lắng đọng tạp chất xuống thì mới bơm nước biển mặn đó vào ao tôm, rồi thả tôm giống xuống. Ao tôm phải trải bạt từ phần tiếp giáp mặt nước đến tận đáy; mặt đáy ao là đất hữu cơ bình thường, không sử dụng bất cứ loại hóa chất nào. Con tôm sú giống được nuôi bằng bã đậu nành ủ với men chua trong vòng 45 ngày, sẽ nhanh lớn và tăng trưởng an toàn. Hiện nay, cách nuôi tôm này chi phí đầu tư thấp, hạn chế được dịch bệnh, không sử dụng kháng sinh nên phát triển khá nhiều tại huyện Cần Giờ. Theo thống kê, toàn huyện có hơn 20 ha, tập trung chủ yếu ở xã An Thới Đông và xã Lý Nhơn.

Đầu năm 2016, xã An Thới Đông có hai hộ thực hiện chuyển đổi mô hình sản xuất từ nuôi tôm thông thường sang nuôi tôm công nghiệp trải bạt lưới và nuôi tôm bằng thức ăn hữu cơ với tổng diện tích 12ha; mức đầu tư chuyển đổi khoảng 500 triệu đồng/ha.

Tính đến nay, sản lượng thu hoạch sau chuyển đổi mùa thuận đạt 40 tấn/ha, mùa nghịch đạt 10 tấn/ha. Thu nhập bình quân mỗi năm gần 1 tỷ đồng/ha, cao hơn nhiều so với cách nuôi tôm trước đây, góp phần nâng cao đời sống nông dân huyện Cần Giờ.

H.L (Tổng hợp)

Biến đổi khí hậu thách thức sự sống còn của các loài cá trên toàn thế giới

Biến đổi khí hậu sẽ buộc nhiều động vật lưỡng cư, động vật có vú và chim di chuyển đến các khu vực lạnh hơn ngoài phạm vi sống bình thường của chúng. Nhưng cơ hội để các loài cá sống sót khi biến đổi khí hậu tiếp tục làm ấm các vùng nước trên thế giới là gì?


Các nhà nghiên cứu của Đại học Washington (UW) đang giải quyết câu hỏi này trong phân tích đầu tiên về mức độ dễ tổn thương của các loài cá nước ngọt và cá biển trên thế giới đối với biến đổi khí hậu. Báo cáo này đã sử dụng số liệu về sinh lý học để dự đoán rằng gần 3.000 loài cá sống ở các đại dương và sông sẽ phản ứng thế nào với nhiệt độ nước ấm lên ở các vùng khác nhau.

Tác giả chính Lise Comte, nhà nghiên cứu sau tiến sỹ thuộc Trường Khoa học Thủy sản của UW, cho biết: “Biến đổi khí hậu đang diễn ra. Chúng tôi cần các công cụ để xác định những khu vực có nguy cơ cao nhất và cố gắng xây dựng kế hoạch bảo tồn những khu vực này. Điều quan trọng là chúng ta phải tự nhìn vào các sinh vật này vì chúng ta không thể giả sử rằng tất cả các loài đều nhạy cảm với những thay đổi này”.

Các nhà nghiên cứu thu thập dữ liệu từ các thí nghiệm thực nghiệm về gần 500 loài cá được tiến hành trong 80 năm qua bởi các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới. Những thí nghiệm chuẩn này đo nhiệt độ cao nhất mà cá có thể chịu được trước khi chết. Lần đầu tiên trong phân tích này, các dữ liệu khác nhau từ các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm đã được kết hợp và sử dụng để dự đoán cá sẽ phản ứng như thế nào trong tự nhiên.

Các nhà nghiên cứu thấy rằng tổng thể, độ nhạy cảm đối với sự thay đổi nhiệt độ rất khác nhau giữa cá biển và cá nước ngọt. Phân tích cho thấy nhìn chung, cá biển ở các vùng nhiệt đới và cá nước ngọt ở vĩ độ cao của bán cầu bắc có nguy cơ cao nhất khi nhiệt độ nước ấm lên.

Julian Olden, Giáo sư về Khoa học Thủy sản cho biết: “Không nơi nào trên trái đất cá không bị ảnh hưởng do phải đối mặt với biến đổi khí hậu. Loài cá có những thách thức đặc biệt - chúng hoặc phải di chuyển nhanh để đáp ứng các yêu cầu về nhiệt độ của mình, hoặc chúng sẽ buộc phải thích ứng nhanh chóng”.

Sử dụng dữ liệu trong nhiều năm và dựa vào thực tế là nhiều loài cá có liên quan theo sự phân loại và có xu hướng chia sẻ cùng một giới hạn nhiệt - các nhà nghiên cứu đã có thể dự đoán nhiệt độ giới hạn cho gần 3.000 loài. Các mô hình khu vực sau đó xuất hiện khi những dữ liệu này được ghép với dữ liệu mô hình khí hậu dự báo nhiệt độ tăng theo biến đổi khí hậu.

Ví dụ, cá ở các vùng biển nhiệt đới vốn đã đang sống trong các vùng nước đang tiến đến mức chịu đựng cao. Chúng có thể không có nhiều khả năng chống chịu khi nhiệt độ tăng nhẹ. Ngược lại, ở các vùng nước ngọt xa về phía bắc, cá thường quen với nhiệt độ nước mát hơn nhưng lại ít chịu đựng được các vùng nước ấm lên.

Các nhà nghiên cứu giải thích cá sẽ di chuyển, thích ứng hoặc chết khi nhiệt độ tiếp tục ấm lên. Olden cho biết với tốc độ tiến hóa trong quá khứ với các giới hạn nhiệt quan trọng, có vẻ như các loài cá sẽ không theo kịp tốc độ tăng nhiệt độ. Khả năng di chuyển là điều bắt buộc đối với cá sống trong những khu vực quan trọng nhất được xác định trong phân tích này.

Hiện tại, các đập nước và các cơ sở hạ tầng khác có thể ngăn không cho cá tiếp cận nơi chúng có thể cần trong tương lai; các thang dành cho cá và các phương tiện khác cho phép cá phá vỡ các rào cản này có thể được sử dụng dễ dàng hơn, mặc dù hiệu quả của các cấu trúc này là rất khác nhau.

Ngoài ra, các hành động để khôi phục lại thảm thực vật dọc theo các rìa các dòng suối và hồ có thể giúp che bóng mát và giảm nhiệt độ nước vì lợi ích của cá.

Olden cho biết: “Các loài cá trên toàn thế giới phải đối mặt với những thách thức gắn liền với biến đổi khí hậu. Nhìn về phía trước, cần có những nỗ lực tiếp tục hỗ trợ các chiến lược bảo tồn cho phép các loài đáp ứngvới những thay đổi nhanh chóng này”.

HNN (Theo phys.org)

Cần quyết liệt ngăn chặn hành vi bơm tạp chất vào tôm

Thời gian vừa qua, hình ảnh con tôm Việt Nam đã bị ảnh hưởng không nhỏ do sự gian dối của một số thương lái thu mua tôm của Việt Nam và nước ngoài. Chính phủ đã chỉ đạo các bộ ngành liên quan quyết liệt xử lý và ngăn chặn, không để tái diễn các hành vi gian lận thương mại, trong đó có hành vi bơm tạp chất vào tôm để bảo vệ uy tín và hình ảnh con tôm Việt Nam.


Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) là khu vực diễn ra hoạt động bơm tạp chất vào tôm nhiều nhất trong cả nước, đặc biệt là các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu. Tại Bạc Liêu, tính riêng đợt ra quân cao điểm vào cuối năm 2016, 9 cơ sở bơm tạp chất vào tôm đã bị phát hiện. Tại Cà Mau, riêng năm 2016, sở Nông nghiệp đã tiến hành 64 đợt kiểm tra và phát hiện 57 vụ sai phạm, với số lượng gần 12 tấn tôm tạp chất. Ngoài ra, các đoàn công tác liên ngành của tỉnh Cà Mau còn phát hiện và xử lý thêm 36 vụ sai phạm, với số lượng tôm trên 9 tấn. Cũng vào giai đoạn cuối năm 2016, Cục An ninh Kinh tế Nông, lâm, ngư nghiệp (thuộc Tổng cục An ninh, Bộ Công an) đã phối hợp với một số đơn vị liên quan và cơ quan chức năng Cà Mau, Bạc Liêu tiến hành đợt kiểm tra tình trạng bơm tạp chất trên địa bàn 2 tỉnh này, phát hiện 3 cơ sở, 2 doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sai phạm trong hành vi bơm chích tạp chất vào tôm nguyên liệu.

Đặc biệt, hành vi bơm tạp chất chỉ do thương lái và các cơ sở thu mua tôm trung gian thực hiện chứ không phải xuất phát từ người nuôi tôm. Ban đầu, chỉ một vài thương lái nước ngoài thu mua tôm của nông dân thông qua thương lái Việt Nam yêu cầu bơm tạp chất vào tôm để kiếm lợi bất chính. Từ 1kg tôm, sau khi bơm tạp chất, thương lái có 1,2kg tôm. Thấy cái lợi trước mắt, nhiều công ty Việt Nam cũng buộc các thương lái người Việt Nam phải bơm tạp chất vào tôm thì họ mới mua, từ đó dần hình thành trào lưu xấu, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành nuôi, chế biến và xuất khẩu tôm của nước ta. Điều đáng lo ngại là tạp chất đã xuất hiện ở cả những lô hàng xuất khẩu sang Mỹ, Nhật, những thị trường mà Việt Nam phải rất vất vả mới tiếp cận được. Nếu tình trạng này tiếp diễn, chắc chắn tương lai xuất khẩu của con tôm Việt Nam sẽ gặp rất nhiều gian nan.

Người dân rất bất bình khi con tôm mình nuôi ra là tôm sạch, qua tay trung gian, thương lái bị biến thành tôm bẩn, làm ảnh hưởng tới chính chất lượng, giá tôm và cả sinh kế của người dân trong tương lai. Suy rộng hơn, cả ngành xuất khẩu thủy sản lẫn nền kinh tế của Việt Nam cũng sẽ phải chịu ảnh hưởng. Ngoài ra, nhìn vào những bài học đắt giá mà nông sản Việt Nam gặp phải trong thời gian qua, có thể thấy nếu không sang suốt tự bảo vệ chính mình, con tôm Việt Nam sớm muộn cũng sẽ rơi vào bàn tay thao túng của các thương lái nước ngoài, giống như nhiều mặt hàng nông sản khác của Việt Nam.

Tại Hội nghị phát triển ngành tôm Việt Nam diễn ra tại Cà Mau, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cũng yêu cầu kiên quyết xử lý hành vi bơm tạp chất vào tôm  để trục lợi bất chính, đồng thời nêu rõ Chính phủ và toàn thể xã hội tuyên chiến với những hành vi gian lận này. Cùng với việc nêu cao tinh thần đoàn kết của người nuôi tôm, các doanh nghiệp thu mua, chế biến, xuất khẩu tôm để xây dựng ngành tôm Việt Nam, các cơ quan quản lý nhà nước cần phải nghiêm túc xử lý các vi phạm, trả lại cho thị trường tôm một môi trường sản xuất, kinh doanh lành mạnh, bền vững. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý, phải có cơ chế quản lý để giúp người nông dân tận dụng, khai thác tốt những ưu thế từ các thị trường xuất khẩu, như tổ chức thu mua trực tiếp từ người nông dân, không thông qua thương lái, xuất khẩu theo con đường chính ngạch.

Hương Trà

Các đại dương trên thế giới trong tình trạng bất ổn nghiêm trọng

Các số liệu thống kê rõ ràng đã nói lên điều này. Với mức tiêu thụ hiện tại, số lượng mảnh vụn nhựa sẽ lớn hơn các loài thủy sản ở các đại dương trên thế giới vào năm 2050.

Hơn 90% nguồn lợi thủy sản ở Địa Trung Hải bị khai thác quá mức và lượng carbon dioxide mà con người sẽ thải vào không khí vào năm 2100 có thể là đủ để gây ra một sự tuyệt chủng hàng loạt lần thứ sáu. Thêm vào đó, nhiệt độ Trái đất tiếp tục tăng, và hơn 90% lượng nhiệt thừa do khí thải nhà kính đang được hấp thu vào các đại dương bao phủ 2/3 bề mặt của hành tinh. Theo Martin Banks, điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến tăng nhiệt độ đại dương, dẫn tới các mối đe dọa khác đối với các môi trường sống của các loại thủy sản, như sự axit hóa và khử oxy.

Theo Ông Philip Stephenson, một nhà kinh doanh và nhà từ thiện người Mỹ điều hành Quỹ Philip Stephenson, “sự kết hợp của ô nhiễm ven biển, quá trình lắng đọng trầm tích, dịch bệnh, đánh bắt quá mức và đại dương ấm lên” đã làm các rạn san hô đặc biệt bị đe doạ. Ví dụ ở Caribê, nơi Tổ chức của ông hiện đang làm việc để khôi phục loài động vật không xương sống mỏng manh ở biển, “tỷ lệ san hô sống đã giảm 50% trong 4 thập kỷ qua”.

Tin tốt lành là các đại dương của thế giới cuối cùng cũng nhận được sự quan tâm. Theo Tiến sĩ Owen Day, nhà sinh học biển và là người sáng lập CLEAR Caribbean, người đang làm việc với Quỹ Philip Stephenson về khôi phục lại san hô, Liên minh Châu Âu có vai trò “then chốt” trong việc bảo vệ các đại dương, “đặc biệt là kể từ khi Hoa Kỳ rút ra khỏi Hiệp định Paris”. Và EU dường như thực sự quan tâm đến việc bảo vệ nguồn tài nguyên nước mặn của thế giới.

Ông Stephenson đồng ý với đánh giá này: “Mặc dù có nhiều vấn đề liên quan đến Chính sách Thuỷ sản Chung được sử dụng trong quản lý thủy sản của châu Âu, trong những năm gần đây khu vực này đã có những tiến bộ như lệnh cấm việc loại bỏ thủy sản đánh bắt và các biện pháp quản lý chặt chẽ hơn đối với cá tuyết Biển Bắc, nguồn lợi hiện đang hồi phục nhanh chóng”.

Đầu năm nay, Ủy ban đã thông báo kế hoạch dành hơn 550 triệu Euro để bảo vệ sức khoẻ của các đại dương, tài trợ cho hơn 30 sáng kiến ​​bao gồm các nỗ lực chống lại nạn cướp biển và đánh bắt bất hợp pháp, một hệ thống giám sát vệ tinh và một chiến lược về nhựa mới cho khối. Giám đốc đối ngoại của EU, Bà Federica Mogherini cho biết bà hy vọng rằng các nước khác sẽ hỗ trợ và tăng tổng kinh phí lên hơn 1 tỷ Euro.

Nhưng EU không nên dựa vào các thành công của mình, đặc biệt là với một Tổng thống hoài nghi với khí hậu ở Nhà Trắng. Như ngày Tiến sỹ Day nói với EUReporter: “EU và các nước thành viên cần tăng cường quyết tâm thực hiện các biện pháp giảm nhẹ để giữ nhiệt độ toàn cầu tăng dưới 1,5 độ C. Nhiều nước châu Âu đang hỗ trợ các hoạt động quản lý biển trên toàn thế giới, như thành lập các khu bảo tồn biển (MPA) xung quanh các vùng lãnh thổ ở nước ngoài của châu Âu. Ông cho biết viện trợ của châu Âu đang hỗ trợ các chương trình phát triển và thích ứng trong quản lý thủy sản và bờ biển.


“Nhưng”, ông cảnh báo, “còn nhiều điều nữa cần phải thực hiện. Thông qua kinh nghiệm trong các vấn đề biển, EU nên là một chất xúc tác quan trọng cho một thỏa thuận toàn cầu mới về quản lý và bảo vệ các vùng biển khơi. Ngoài các vùng biển của mình, EU cũng nên góp phần hạn chế đánh bắt cá IUU và các hành động bất chính khác xảy ra trên đại dương và làm hỏng các môi trường biển”.

Về các mối đe dọa cụ thể đối với các đại dương, Tiến sĩ Day ghi nhận rằng ô nhiễm biển là “vấn đề khổng lồ” ở phần lớn đại dương, “và các tác động rất lớn”, đặc biệt là khi kết hợp với hoạt động của con người. Việc các vùng ven biển tràn đầy các chất dinh dưỡng (nitrat, nitrit, amoni, phosphat - còn gọi là sự sự phú dưỡng) từ nước thải và phân bón, đang tạo ra các vùng chết lớn trên đáy biển, nơi ôxy bị cạn kiệt. Số lượng và kích thước của những khu vực chết này đang ngày càng gia tăng và các vụ thủy sản bị chết với số lượng lớn đang được ghi nhận ở nhiều nơi”.

Ông cho biết tăng lượng ô nhiễm nước thải ở các khu vực ven biển cũng là một mối đe dọa đối với sức khoẻ con người.

“Việc xả nước thải ngày càng tăng từ tàu thuyền ghé thăm các khu bảo tồn biển hoặc các điểm nóng du lịch đang ngày càng trở nên đáng lo ngại đến cả sức khoẻ của con người và các hệ sinh thái biển yếu ớt”.

Stephenson nói rằng cần phải có hành động ở cấp độ quốc tế, bao gồm cả EU, bởi vì các rạn san hô đang bị đe doạ bởi sự kết hợp của ô nhiễm ven biển, trầm tích, dịch bệnh, đánh bắt quá mức và sự nóng lên của đại dương.

Rủi ro quân sự và an ninh quốc tế cũng làm gia tăng những áp lực này và mở rộng ra ngoài các vùng kinh tế độc quyền của mỗi quốc gia. “Như vậy”, Stephenson nói, “các vùng biển khơi vẫn là vùng lãnh thổ chủ yếu không được kiểm soát, do các nhà khai thác phi đạo đức tiến hành đánh bắt bất hợp pháp, không được báo cáo và không được kiểm soát (IUU) ở quy mô công nghiệp”.

Stephenson, người quan tâm đến các tài nguyên biển trên thế giới, đã kêu gọi các chính phủ “tìm ra cách để thực hiện nhiều hành động hơn trong việc điều tiết các ngành công nghiệp của mình và bảo vệ các hệ sinh thái biển yếu đuối, đồng thời chống lại các hoạt động tội phạm đang diễn ra trên biển”. Nếu không”, ông cảnh báo “Hậu quả của việc không cắt giảm ô nhiễm biển sẽ là cả về sinh thái và kinh tế. Ô nhiễm có thể giảm đáng kể chức năng của các hệ sinh thái ven biển và dẫn đến giảm lợi ích kinh tế trong ngành thủy sản, du lịch và bảo vệ bờ biển. Các rạn san hô khỏe mạnh rất có giá trị bảo vệ bờ biển tự nhiên, và rạn san hô mất đi thường gây ra xói mòn bờ biển nhanh chóng, với việc mất đi các bãi biển và cơ sở hạ tầng ven biển. Hơn 80% các bãi biển Caribê đang bị ăn mòn nhanh chóng do sự kết hợp giữa việc mất rạn san hô và nước biển dâng”.

Lý tưởng nhất là điều này có thể được thực hiện thông qua Liên Hợp Quốc và/hoặc sử dụng các cơ chế song phương khác.

HNN (Theo eureporter)

Bài viết được xem nhiều