Hiển thị các bài đăng có nhãn kỹ thuật nuôi tôm. Hiển thị tất cả bài đăng

Gây màu nước cho ao nuôi tôm và những lưu ý


Gây màu nước rất quan trọng trong nuôi tôm. Tuy nhiên, trên thực tế, hiệu quả của việc gây màu nước luôn không như mong muốn, có màu nước lợi cho tôm và cũng có màu nước lại gây hại cho tôm. Vì vậy, người nuôi tôm cần nắm vững quy luật thay đổi màu nước.

Nguyên tắc gây màu nước trước khi thả giống

- Nước được gây màu và các chất dinh dưỡng trong phân bón (đạm, lân, kali và các nguyên tố vi lượng khác) nên cân bằng giữa các chất.

- Phân vô cơ (phân hóa học) là sản phẩm hiệu quả tức thì, tuy gây màu nước nhanh nhưng thời gian duy trì ngắn; phân hữu cơ thuộc sản phẩm hiệu quả kéo dài, tuy gây màu nước chậm nhưng thời gian duy trì khá lâu. Hai loại kết hợp sử dụng một cách hợp lý có thể đạt được hiệu quả gây màu nước tốt vừa nhanh mà lại ổn định.

- Khi sử dụng phân vô cơ phải dựa vào tình hình ánh sáng mặt trời, dùng ít nhưng nhiều lần. Ánh sáng mạnh, thời gian chiếu sáng dài thì bón nhiều, ngược lại thì bón ít nhưng bón nhiều lần. Nếu không những ngày trời mưa, sau khi bón phân, phần lớn sẽ chìm xuống đáy ao, có khả năng khiến rêu xanh sinh sôi nhiều.

- Lượng phân bón cơ bản phải đủ, nhất định phải xem xét các chất dinh dưỡng đã có trong ao, chẳng hạn như bùn và kết cấu số lượng các chất dinh dưỡng cơ bản đã bón xuống ao. Nếu bùn đáy nhiều thì bón ít, bùn đáy ít hoặc ao mới thì bón một lượng thích hợp.

- Khi bùn đáy ít, nếu chỉ bón riêng chế phẩm vi sinh (khuẩn sống) thì hiệu quả gây màu tương đối kém, những khuẩn này sau khi xuống ao sẽ không gì có thể phân giải nó thành phân bón được.

- Bón phân sau khi thả giống nên bón ít nhưng nhiều lần, sử dụng ít hoặc thận trọng khi sử dụng phân đạm như phân urê, nếu không thì hàm lượng NH3 có thể sẽ tăng lên.

- Hàm lượng đạm lân thực tế trong nước vượt quá tỷ lệ 10:1 thì tảo Silic rất dễ sinh sôi phát triển mạnh; tỷ lệ đạm lân là 3:1 - 7:1, thậm chí gần 10:1 thì tảo lục dễ phát triển nhiều; nhưng tỷ lệ đạm lân xấp xỉ 1:1 thì các loại tảo như tảo Dinoflagellates hay tảo Flagellates độc hại dễ sinh sôi nhiều.

- Sau khi gây màu nước, độ trong suốt của nước nên nằm trong khoảng 30 cm. Nước màu xanh (xanh nhạt, xanh lục, xanh vàng hoặc màu đậu xanh) ổn định hơn so với nước màu nâu (màu trà, màu nâu sẫm). Muốn có được màu nước ổn định cần điều chỉnh số lượng, chủng loại phân bón.

Lợi và hại trong phương pháp gây màu nước theo thông thường

- Phương pháp gây màu nước thông thường trước tiên là dọn ao, giải độc, sau đó cho nước vào giải độc gây màu nước, trên cơ bản đã gây được màu nước, nhưng một tuần, nhiều nhất là khoảng nửa tháng thì nước lại trong và rớt tảo, quấn tảo. Nếu chỉ sử dụng những sản phẩm có chứa phân hóa học thì tuy phát huy tác dụng nhanh, nhưng thời gian ổn định không dài. Có không ít hộ nuôi sử dụng các phương pháp như: phân gà, vịt, lợn, bột chất lượng kém (vốn gọi là bột vàng), bã lạc, bã đậu, đường gạo thêm vào một ít phân hóa học hoặc các sản phẩm bán trên thị trường để gây màu, hiệu quả cũng rất ổn nhưng 10 - 15 ngày sau lại hết tác dụng. Đó là vì những dinh dưỡng được bón xuống nước không đầy đủ, không cân bằng dẫn đến hiện tượng thiếu hụt một vài chất dinh dưỡng (phần lớn là đạm đủ lân thiếu), một vài loại tảo bị ức chế sinh trưởng, mà cùng lúc lại có những loại tảo khác sinh trưởng dẫn đến quấn tảo.

- Có người sử dụng sản phẩm khuẩn sống (còn gọi là chế phẩm vi sinh hay sinh học) như: Vi khuẩn quang hợp, khuẩn Bacillus, khuẩn Nitrat… một số thấy hiệu quả ngay, một số hiệu quả không rõ rệt, tại sao lại như vậy?

Làm phép so sánh, khuẩn sống giống như nồi cơm điện và điện của chúng ta, các sản phẩm gây màu (như phân gà, đường gạo, bã đậu...) giống như gạo chúng ta bỏ vào nồi, bao nhiêu gạo thì nấu ra bấy nhiêu cơm. Khuẩn sống chủ yếu có tác dụng phân giải và phân giải từ từ, các chất dinh dưỡng bón xuống nước không nhiều hoặc ít bùn, tất nhiên là không đủ điều kiện gây màu, gây màu không đủ khó tránh khỏi nước thay đổi biến chất, đặc biệt là những ao mới, thời kỳ đầu cho ăn ít, chất bài tiết của tôm cũng rất ít, chất dinh dưỡng trong nước ao ít, hiệu quả sử dụng vi khuẩn làm sao có thể duy trì được trong thời gian dài đây? Trừ khi thêm vào các chất có đầy đủ dinh dưỡng vào trong sản phẩm khuẩn sống thông thường.

- “Axit amin gây màu nước”, sản phẩm này cũng phổ biến giống như chất gây màu nước axit amin, dầu gây màu nước axit amin, dịch gây màu axit amin, thành phần chủ yếu ngoài những axit amin phức hợp ra còn có peptit hoạt tính, nhiều vitamin và khoáng chất, thậm chí còn có cả khuẩn phức hợp có ích. Phát huy tác dụng nhanh, hiệu quả tốt, vì axit amin được sử dụng nhanh hơn các protein thông thường, dinh dưỡng phong phú, hiệu quả gây màu cũng duy trì được khá lâu, nhưng các axit amin sau khi phân giải chủ yếu sinh ra đạm, cũng có thể là do thiếu lân, kali hoặc các nguyên tố vi lượng… hoặc là tỷ lệ không cần bằng dẫn đến hiện tượng quấn tảo.

Nguyên nhân gây màu nước thất bại

- Số lượng tảo trong nguồn nước (nước ngầm, nước nghèo dinh dưỡng) phải cho vào ao ít, ví dụ như hồ cao triều, ao lót bạt, ao đất cát… không đủ dinh dưỡng, thiếu các muối dinh dưỡng mà các loại tảo cần để sinh trưởng;
- Sử dụng các thuốc giải độc có tác dụng phụ lớn, tiêu diệt các loại tảo và vi sinh vật, kìm hãm sự sinh trưởng và sự phát triển của nó;
- Nước ao axit;
- Mặc dù bón phân nhưng thiếu một vài loại muối dinh dưỡng hoặc đã mất tác dụng gây màu, các loại tảo cũng không phát triển nổi;
- Trời mưa, không đủ ánh sáng mặt trời hoặc là do nhiệt độ thấp kìm hãm tốc độ sinh sôi phát triển của tảo;
- Các động vật phù du ăn tảo trong nước nhiều (trùng bánh xe, các loại giáp xác chân chèo, Brine Shrimp);
- Trong nước có quá nhiều tảo tạp (Cladophora, Enteromorpha Prolifra, cỏ mương… vẫn gọi là “rêu”) ức chế sinh sôi phát triển của tảo đơn bào.

Đối sách

Tảo là một loại thực vật, bất kỳ loài thực vật nào sinh trưởng phát triển cũng cần có giống, phân, ánh sáng, thiếu một trong ba đều không được, do đó nếu muốn gây màu nước thì phải chuẩn bị ba việc sau đây:

- Giống tảo: Các loại tảo gây màu nước phải khỏe mạnh, đầy đủ chủng loại và cân bằng nhau.
- Phân bón: Dinh dưỡng trong phân bón cân bằng, hiệu quả nhanh và lâu dài đều.
- Ánh sáng: Không có ánh sáng thực vật không thể sinh trưởng phát triển được. Đồng thời các sinh vật có hại trong nước ít, pH, nhiệt độ nước thích hợp.

Quy trình kỹ thuật nuôi tôm sú cải tiến đem đến thành công cho các hộ nuôi


Kỹ thuật quy trình nuôi tôm sú bán thâm canh, thâm canh, công nghiệp, quy trình nuôi tôm sú quảng canh cải tiến và các bước để nuôi tôm sú không thể thiếu như: chọn ao và mùa vụ, hệ thống cống, cải tạo và xử lý ao, xử lý nước, chọn tôm sú giống, thả tôm, cho tôm ăn, và chăm sóc tôm để có cơ hội nuôi tôm thành công cao hơn.

Chọn địa điểm xây dựng ao

Xây dựng ao nuôi tôm sú ở vùng đã quy hoạch. Nền đất quy hoạch phải là đất thịt hoặc đất pha cát, ít mùn, có kết cấu chặt chẽ, giữ nước tốt, tiện lợi cho cấp và thoát nước. Chủ động nguồn cấp nước đảm bảo không bị ô nhiễm nước. Thuận lợi giao thông đi lại và đủ điện cung cấp.

Xây dựng ao nuôi tôm sú

1. Hệ thống ao nuôi theo quy trình nuôi tôm sú bao gồm: Ao lắng (chiếm 20 - 25% diện tích), ao nuôi (chiếm 60 - 70% diện tích) và hệ thống ao xử lý chất thải (10 - 15% diện tích).

2. Thiết kế ao ương: Tùy điều kiện mỗi hộ nuôi mà có thể thả nuôi trực tiếp hoặc thả ương trước khi đưa trực tiếp vào ao nuôi.

3. Thiết kế ao nuôi: Tùy diện tích mà thiết kế những ao nuôi nên có diện tích 1.500 - 3.000 m2, bờ ao 2 - 2,5 m, mức nước 1,4 - 2 m. Ao nuôi hình vuông hoặc có hình chữ nhật, góc ao nên được bo tròn. Rào lưới xung quanh để tránh các loài ký chủ gây bệnh cho tôm. Đáy ao bằng phẳng và nghiêng về hệ thống thoát. Bờ ao nên lót bạt để chống xói lở và giúp hạn chế rò rỉ.

Chuẩn bị ao nuôi theo quy trình nuôi tôm sú

1. Cải tạo ao (ao nuôi, ao lắng):

- Bước 1: Tháo cạn nước trong ao nuôi và ao lắng, sên vét đáy ao để loại bỏ các địch hại. Gia cố và lót bạt bờ ao để chống xói lở giúp hạn chế bị rò rỉ. Rào lưới để tránh các loài ký chủ trung gian gây bệnh từ ngoài vào. Tùy vào điều kiện và mật độ nuôi mà đáy ao nuôi có thể lót bạt nhằm hạn chế nước đục, giúp nâng cao độ hòa tan của ôxy khi đó tôm tăng trưởng tốt hơn.

- Bước 2: Bón vôi đá, tùy điều kiện pH trong đất mà bón.

Sau khi bón vôi đá, tùy chất đất mà có thể sử dụng thêm vôi nông nghiệp. Có thể thêm khoáng vi lượng làm tăng độ kiềm đối với ao lâu năm, nghèo chất dinh dưỡng theo quy trình nuôi tôm sú .

- Bước 3: Phơi đáy ao từ 5 - 7 ngày đến khi nứt chân chim thì lấy nước. Đối với những ao nuôi tôm không phơi được thì cần: bơm cạn hết nước, dùng máy đưa chất thải về góc cuối ao, bơm chất thải vào ao chứa thải, sau đó bón vôi đúng liều lượng như Bước 2. Sau đó cần cấp nước vào ao ngay ngày hôm sau để tránh xì phèn.

- Đối với ao mới: Ngâm rửa đáy ao khoảng 2 - 3 lần rồi xử lý.

2. Lấy và xử lý nước

- Bước 1: Lấy nước vào ao lắng (qua túi lọc), lắng từ 3 - 5 ngày.

- Bước 2: Cấp nước từ ao lắng sang ao nuôi (qua túi lọc) đạt 1,3 - 1,4 m; chạy quạt thêm 3 ngày cho trứng và giáp xác nở.

- Bước 3: Xử lý Chlorine nồng độ 30 ppm (30 kg/1.000 m3 nước) hoặc TCCA 20 ppm vào buổi tối để diệt khuẩn.

- Bước 4: Xử lý EDTA liều 2 - 3 kg/1.000 m3 nước để khử các kim loại nặng và độ cứng nước ao.

Chạy quạt liên tục trong thời kì xử lý nước để phân hủy dư lượng Chlorine có trong ao nuôi.

3. Gây màu nước

- Gây màu nước với mật đường + cám gạo + bột đậu nành (tỷ lệ 3:1:3) ủ trong 12 giờ. Liều lượng 3 kg/1.000 m3 nước ao nuôi, tạt liên tục 3 ngày vào 9 - 10 giờ sáng và kết hợp với vôi Dolomite 10 - 15 kg/m3. Khi nước ao nuôi chuyển sang màu tảo khuê (vàng hoặc nâu nhạt) hay xanh vỏ đậu thì dùng 3 kg mật đường/100 m3 nước để kết hợp cấy men vi sinh rồi sau đó thả giống theo đúng quy trình nuôi tôm sú đề ra.

- Đối với các ao khó gây màu nước, hay màu nước không bền thì nên bổ sung các thành phần khoáng chất, kết hợp dùng dây xích kéo đáy 2 lần/ngày.

- Kiểm tra và thay đổi các yếu tố môi trường hợp lý trước khi thả tôm: pH 7,5 - 8,5 (dao động trong ngày không quá 0,5); độ kiềm: 120 - 180 mg/l; độ mặn 5 - 25‰ (tốt nhất > 5‰); độ trong 30 - 40 cm; NH3 < 0,1 mg/l; H2S < 0,03 mg/l; hàm lượng ôxy hòa tan > 5 mg/l.

Chạy quạt liên tục ban ngày nhằm kích ứng tảo phát triển.

Thiết kế quạt nước quy trình nuôi tôm sú công nghiệp

Vị trí đặt cách bờ khoảng 1,5 m. Khoảng cách giữa hai cánh quạt tầm 40 - 60 cm và lắp so le nhau. Tùy theo ao mà bố trí cánh quạt nước tạo được dòng chảy tốt nhất, nếu mật độ nuôi lớn hơn 60 con/m2 cần lắp thiết bị cung cấp ôxy dưới đáy để đảm bảo đủ ôxy cho tôm nuôi theo quy trình nuôi tôm sú.

Quản lý ôxy hòa tan trong nước. Hệ thống cung cấp ôxy dành cho tôm chủ yếu sử dụng cánh quạt nhựa hoặc quạt lông nhím. Trong ao nuôi tôm nếu kết hợp được cả hai loại cánh quạt này theo tỷ lệ 1:1 là tốt nhất vì sẽ tạo dòng chảy tốt để tạo vùng cho ăn và sinh hoạt sạch cho tôm nuôi, tăng thêm  khả năng cung cấp ôxy hòa tan trong ao.

Chọn giống quy trình nuôi tôm sú giống

1. Chọn giống. Chọn con giống ở các địa chỉ có uy tín và nguồn gốc rõ ràng. Người nuôi có thể chọn bằng cảm quan hoặc qua xét nghiệm.

2. Thả giống. Thả ương với mật độ khoảng 600 - 1.000 con/m2. Mật độ thả nuôi: khoảng 30 - 80 con/m2. Chạy quạt trước khi thả giống tầm 6 giờ để đảm bảo đủ lượng ôxy hòa tan đạt 5 mg/l trở lên. Thuần tôm khoảng 30 phút rồi thả. Thả vào lúc sáng sớm hoặc thả vào chiều mát và theo hướng trên gió.

Chăm sóc và quản lý quy trình nuôi tôm sú

1. Cho ăn.

Tùy điều kiện của từng hộ mà cho ăn theo cách thủ công hoặc cài đặt thiết bị máy cho ăn tự động nếu nuôi tôm với mật độ cao.

Khi tôm khoảng 15 ngày tuổi, thực hiện đặt sàn ăn và khi tôm 25 ngày tuổi thì thay đổi lượng thức ăn qua thời gian ăn hết thức ăn trong sàn kết hợp quy trình nuôi tôm sú bằng vi sinh để đạt hiệu quả cao nhất.

Cho ăn 4 - 5 lần/ngày.

2. Quản lý môi trường ao nuôi

- Kiểm tra độ pH, trong ao 2 lần/ngày vào lúc 7h và 15h, kiểm tra độ kiềm trong ao, NH3 3 ngày/lần để tùy chỉnh cho phù hợp.

- Trong quá trình sinh trưởng, tôm nuôi cần rất nhiều khoáng chất, do đó cần duy trì độ kiềm 120 mg/l trở lên bằng cách dùng vôi CaCO3 hoặc sử dụng Dolomite và hay bổ sung khoáng cho ao nuôi vào ban đêm khoảng 3 - 5  ngày/lần giúp cho tôm nhanh cứng vỏ và lột xác đồng loạt.

- Định kỳ 7 - 10 ngày/lần cấy vi sinh để tăng cường thêm mật độ vi khuẩn lợi trong ao nuôi hoặc từ 7 - 10 ngày/lần diệt khuẩn cho ao nuôi kết hợp cấy thêm men vi sinh trở lại sau 48 giờ. Hạn chế lấy nước vào ao nuôi tôm, khi cần thì lấy nước vào ao lắng rồi xử lý Chlorine liều 30 kg/1.000 m3 đến khi dư lượng Chlorine trong nước hết thì bơm vào ao nuôi, mỗi lần cấp khoảng 20% lượng nước cho ao nuôi, vào lúc trời mát.

3. Quản lý sức khỏe tôm nuôi

- Hằng ngày quan sát các hoạt động bắt mồi và sức khỏe của tôm trong ao, xem biểu hiện các bên ngoài của tôm thông qua màu sắc, phụ bộ, thức ăn trong ruột… để có thể phát hiện các dấu hiệu bất thường.

- Dùng 2 sàn trở lên để kiểm tra sức khỏe của tôm nuôi để điều chỉnh khẩu phần ăn cho hợp lý. Định kỳ từ 7 - 10 ngày chài tôm để xác định tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng, sức khỏe tôm cũng như về trọng lượng, sản lượng tôm ở trong ao nuôi nhằm điều chỉnh thức ăn của tôm nuôi cho phù hợp.  Bổ sung thêm Vitamin C, thêm men tiêu hóa đường ruột, khoáng chất và có thể bổ thêm nhóm dinh dưỡng hỗ trợ giải độc trong gan trộn cho tôm ăn mỗi ngày theo  quy trình nuôi tôm sú đã đặt ra.

Thu hoạch

Thời gian theo quy trình nuôi tôm sú thường khoảng 90 ngày tuổi, tùy vào giá cả thị trường, nhu cầu người nuôi và chất lượng của ao nuôi. Khi tôm ăn đạt trọng lượng khoảng 15 - 20 g/con thì có thể thu hoạch.


Trải lòng nuôi tôm mùa mưa lũ


Những cơn mưa liên tục kèm theo nguy cơ lũ lụt là nguyên nhân gây phát sinh dịch bệnh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tôm nuôi. Kinh nghiệm quản lý môi trường ao nuôi trong mùa mưa, lũ là vô cùng quan trọng để góp phần đưa tôm nuôi vượt qua dịch bệnh, phát triển tốt.

Quản lý môi trường

Ổn định pH: Thông thường, pH trong ao tôm ở mức 7,5 - 8,5. Mưa lớn kéo dài, do tính chất axit của nước mưa cộng thêm quá trình rửa trôi phèn từ bờ xuống ao tôm làm cho pH môi trường ao tôm giảm. Do đó, để hạn chế tình trạng này, người nuôi cần theo dõi thông tin thời tiết, bón vôi trước và trong những trận mưa kéo dài. Rải vôi dọc theo bờ ao khi trời mưa với liều lượng 10 kg/100 m2. Nếu pH thấp, sử dụng vôi nông nghiệp CaCO3 liều lượng 10 - 20 kg/1.000 m3 nước ao tùy giá trị pH đo được (chạy quạt để trộn đều nước), xử lý từ từ cho đến khi pH nằm trong ngưỡng cho phép (từ 7,5 trở lên).

Kiểm soát độ kiềm:

Tôm sú có độ kiềm thích hợp là 85 - 130 mg/l; tôm thẻ chân trắng nằm trong khoảng 100 - 150 mg/l. Sau mưa, độ kiềm ao nuôi có xu hướng giảm, vì vậy, cần dùng vôi Dolomite ngâm vào nước ngọt trong 24 giờ, sau đó tạt đều xuống ao vào 8 - 10 giờ đêm với mức 1,655 g vôi Dolomite sử dụng cho cho 1 m3 nước sẽ tăng độ kiềm lên 1 mg/l. Ví dụ: muốn tăng độ kiềm của ao tôm 3.000 m3 từ 80 lên 90 mg/l thì cần 3.000 × 1,655 × (90 - 80)/1.000 = 46,65 kg. Lưu ý, mỗi lần tăng độ kiềm chỉ nên tăng khoảng 10 mg/l, bởi nếu độ kiềm tăng quá nhanh sẽ làm tôm bị sốc, sức đề kháng giảm.

Ngăn chặn nước ao bị đục:

Nguyên nhân làm nước ao tôm bị đục là do các chất hữu cơ, hạt sét bị nước mưa cuốn trôi từ trên bờ xuống ao tôm. Nước đục sẽ làm hạn chế khả năng quang hợp của tảo làm tôm thiếu ôxy, tảo thường tàn đột ngột, tôm bị đen mang, vàng mang do bị những vật chất lơ lửng trong nước bám vào mang tôm. Để khắc phục tình trạng này, có thể sử dụng muối vô cơ như nhôm sunfat (Al2(SO4)3) hoặc  thạch cao để làm trong nước. Sau khi nước giảm đục, cần tiến hành gây màu tảo để tạo môi trường ổn định cho tôm nuôi.

Ngoài ra, khi xuất hiện những cơn mưa lớn cần tăng cường chạy quạt nước để tránh sự phân tầng nhiệt độ, cung cấp thêm ôxy và tăng nhiệt độ nước. Sau những cơn mưa, phải đảm bảo mực nước ao nuôi tôm ổn định ở mức 1,2 - 1,5 m. Khi mực nước ao tôm cao do nước mưa, tiến hành xả bớt lượng nước tầng mặt để duy trì mực nước trong ao, đồng thời tránh làm giảm độ mặn đột ngột, tràn bờ, vỡ cống bọng. Khi mưa chấm dứt vài ngày, thời tiết nắng, tạo điều kiện vi khuẩn có hại phát triển, cần diệt khuẩn để giảm bớt mầm bệnh. Cấy vi sinh lại sau 2 ngày kết hợp với quạt nước, máy bơm, tăng cường hàm lượng ôxy hòa tan, kích thích vi khuẩn có lợi trong ao phát triển, ức chế vi khuẩn có hại, tăng cường phân hủy chất hữu cơ, hạn chế hiện tượng tảo phát triển quá mức.

Sử dụng chế phẩm sinh học

Bổ sung chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản phù hợp là yếu tố không thể thiếu khi nuôi tôm mùa mưa lũ, giúp tôm tăng cường khả năng chống chịu, tăng cường sức đề kháng, phòng các dịch bệnh có thể lây lan,...

Quản lý cho ăn

Khi thời tiết âm u kéo dài, có dấu hiệu sắp mưa cần giảm lượng thức ăn hoặc có thể ngưng cho ăn. Thông thường ở 18 độ C, tôm vẫn có thể bắt mồi nếu nhiệt độ giảm xuống từ từ hoặc đây là nhiệt độ hằng ngày trong mùa lạnh và lượng thức ăn chỉ 10 - 20% so với nhu cầu bình thường. Mỗi khi nhiệt độ giảm đi khoảng 20C thì lượng thức ăn giảm khoảng 30%. Nên kiểm tra nhiệt độ nước trong ao trước khi cho tôm ăn. Tôm ngừng ăn khi nhiệt độ giảm đột ngột từ mức thích hợp (28 - 30 độ C) xuống 22 độ C. Lưu ý, đảm bảo lượng thức ăn không được dư thừa, vì chính nó là nguyên nhân làm ô nhiễm môi trường nước, dẫn đến sự nở hoa của tảo, tăng khí độc…

Bên cạnh đó, khi mưa kéo dài, tôm nuôi có thể bị mềm vỏ, khó lột xác do độ kiềm giảm thấp. Để khắc phục tình trạng này ngoài việc dùng Dolomite thì cần cho tôm ăn thức ăn chất lượng cao, trộn các loại Vitamin C, Vitamin tổng hợp và khoáng chất vào thức ăn hàng ngày để tăng sức đề kháng cho tôm.


Thức ăn tốt hơn, công nghệ cải tiến giúp thúc đẩy sự tăng trưởng của tôm Ecuador


Jose Antonio Camposano, Giám đốc điều hành Phòng nuôi trồng thủy sản của Ecuador, cho biết: Sự cải tiến công nghệ và thức ăn tốt hơn đang đẩy sản lượng tôm của Ecuador lên các mức kỷ lục,.

Tuy nhiên, theo một số nguồn tin của Undercurrent News, nguồn cung ấu trùng thấp hơn đe dọa sự tăng trưởng trong tương lai.

Camposano nói với Undercurrent trong một cuộc phỏng vấn tại Triển lãm Aqua Expo Guayaquil 2017 gần đây rằng ngành tôm vẫn cam kết giảm việc sử dụng các loại kháng sinh, mức sử dụng đã “rất thấp” so với các nước khác.

Ông cho biết: Các nhà sản xuất ở Ecuador cũng sử dụng nhiều phương pháp cải tiến công nghệ hơn vào sản xuất tôm. Các cải tiến này bao gồm nhiều máy cho ăn tự động, máy sục khí hơn để tăng oxy và tái sử dụng nước, xử lý nước và sử dụng probiotic ngoài việc cải tiến thức ăn và di truyền học.

Ông Camposano cho biết: Ngành nuôi tôm Ecuador “tiếp tục học hỏi”. Với những tiến bộ công nghệ, trách nhiệm của chúng tôi với tư cách là một trong những nhà cung cấp tôm chính cho thế giới là mở hướng đi cho ngành tôm”.

Camposano cho biết việc tiếp tục nâng cấp công nghệ đã cải thiện việc nuôi tôm và tỷ lệ sống của tôm tại các trại nuôi, dẫn đến sản lượng tôm cao hơn mà không làm tăng mật độ.

Ông nói thêm rằng việc tăng mật độ trang trại sẽ cần phải đi kèm với việc nâng cấp “đầy đủ” về công nghệ.

Ông Camposano cũng cho biết ngành tôm nước này đã tuân theo các tiêu chuẩn tốt hơn để “thách thức các đối thủ cạnh tranh của mình”, giới thiệu một hệ thống sản xuất đã “tạo ra những kết quả hấp dẫn với sự minh bạch”.

Tăng trưởng sản lượng

Ông Camposano nói với Undercurrent: Từ tháng 1 đến tháng 8/2017, Ecuador đã sản xuất được tổng cộng 620 triệu pao (281.227 tấn) tôm, trị giá 1,9 tỷ USD. Con số này đánh dấu mức tăng trưởng 15% so với cùng kỳ năm ngoái cả về giá trị và khối lượng, vì giá vẫn ổn định.

Sản lượng tôm tháng 7/2017 giảm 20% so với cùng kỳ năm trước, do nhiệt độ lạnh hơn so với tiêu chuẩn được bù đắp bởi sự tăng trưởng sản lượng tôm trong những tháng khác của năm.

Việc giảm sản lượng tôm trong tháng 7 là điều bình thường. Ông Camposano cho biết: Năm nay, tình trạng này đáng chú ý hơn một chút, bởi vì mùa mưa - do hiện tượng El Nino - kéo dài đến tháng 5 và tháng 6 thay vì kết thúc vào tháng 4 và sự khởi đầu của mùa “lạnh” đã bị trì hoãn một chút.

Sản lượng tôm của Ecuador vào tháng 8 đã tăng khoảng 9% so với cùng kỳ năm ngoái ở mức 73 triệu pao (32.000 tấn), trị giá 220 triệu USD.

Về dự báo tổng sản lượng năm 2017, Camposano vẫn bảo thủ hơn so với một số nhà sản xuất, dự báo tăng trưởng 8-9% so với năm 2016 đến 870-880 triệu pound tôm (394.625-399.161 tấn).

Sandro Coglitore, người điều hành trại nuôi tôm và nhà chế biến Omarsa, nói với Undercurrent: Sản lượng tôm chân trắng ở Ecuador vào năm 2017 dường như dễ dàng vượt qua mức 400.000 tấn,.

Chủ tịch Công ty nuôi và chế biến tôm Songa, Ông Rodrigo Laniado Romero, nói rằng nếu tốc độ tăng trưởng trong tám tháng đầu năm tiếp tục cho đến cuối năm, Ecuador có thể đạt được tổng sản lượng 421.565 tấn.

Năm 2016, Ecuador xuất khẩu tổng cộng 799,8 triệu pound tôm (362.808 tấn), tăng 11% so với năm 2015.

Nguồn cung ấu trùng tôm là một thách thức

Một số nguồn tin của Undercurrent ở Ecuador chỉ ra rằng nguồn cung ấu trùng là một thách thức cho ngành tôm, điều này có thể làm chậm tăng trưởng. Theo một số nguồn tin, đây là một vấn đề đã tồn tại từ năm ngoái, nhưng, bất chấp điều này, sản lượng tôm của Ecuador vẫn tiếp tục tăng trong năm 2017 so với năm ngoái.

Tuy nhiên, một số nguồn tin cho biết vấn đề đang trở nên nghiêm trọng hơn.

Một nguồn tin cho biết: “Ấu trùng chết với số lượng lớn xảy ra ở nhiều nơi không chỉ ở khu vực bán đảo. Người nuôi phải cẩn thận trong việc lựa chọn ấu trùng, Vấn đề này sẽ phải được xử lý một cách cẩn trọng, Sản lượng tôm trong tương lai sẽ giảm do thiếu ấu trùng có chất lượng”.

Vấn đề này đã khiến các phòng thí nghiệm ở bán đảo Santa Elena phải đóng cửa.

Hiện nay, 3 phòng thí nghiệm đã đóng cửa và đang được rao bán, hơn 20 phòng thí nghiệm đã được cách ly tự động để làm khô và khử trùng, những phòng thí nghiệm khác tiếp tục bị nhiễm virus và kết quả là tình trạng thiếu ấu trùng tôm mà không ai có thể ngăn chặn tạo nên một tình trạng hết sức nghiêm trọng cho Ecuador.

Tuy nhiên, một nguồn tin từ Undercurrent cho biết, vấn đề này chỉ giới hạn ở Zona de Mar Bravo - Salinas, trong khi nó không ảnh hưởng đến các phòng thí nghiệm ở Manabi hoặc ở phía bắc, cũng như ở Esmeraldas. Nguồn tin cho biết bệnh ảnh hưởng đến ấu trùng là hội chứng chết sớm.

Các thị trường xuất khẩu

Ông Camposano ghi nhận: Châu Á là điểm đến chính của tôm Ecuador hiện nay.

Camposano nhấn mạnh rằng thị trường Hoa Kỳ, nơi việc tiêu thụ tôm đang phát triển, có tiềm năng lớn cho các nhà sản xuất tôm ở Ecuador để tăng xuất khẩu.

Thị trường tôm Liên minh châu Âu vẫn ổn định, nhờ thỏa thuận thương mại tự do giảm thuế nhập khẩu đối với tôm Ecuador từ 3,6% xuống 0% vào đầu năm nay.

Ông nói: “Điều này đã cho phép nhà nhập khẩu châu Âu và nhà xuất khẩu Ecuador yên tâm tiếp tục việc kinh doanh”.

Ông Camposano cho biết: Xuất khẩu tôm sang châu Âu tăng trưởng không nhiều, nhưng điều quan trọng là Ecuador đã giữ thị phần của mình, và ông chỉ ra rằng Ecuador là nhà xuất khẩu tôm chính sang châu Âu, với 24% thị trường, tiếp đó là Ấn Độ.

Ông Camposano nói: Ecuador đã sẵn sàng thay thế và tăng doanh số bán tôm sang EU, nếu Ấn Độ bị tẩy chay với lệnh cấm nhập khẩu vào cuối năm nay.

Đề cập đến khả năng lệnh cấm của EU đối với tôm Ấn Độ, Camposano lưu ý rằng “Nếu các cơ quan chức năng không áp dụng các biện pháp trừng phạt thích hợp, các nước không điều chỉnh các hoạt động nuôi của mình sẽ tiếp tục tái phạm”.

Đề cập đến việc sử dụng kháng sinh, Ông Camposano cho biết Ecuador đã dẫn đầu một sáng kiến ​​“thay đổi nuôi trồng thủy sản trên thế giới” về tính minh bạch và khả năng truy xuất nguồn gốc.

Ông nói: “Việc sử dụng kháng sinh ở Ecuador rất ít so với các nước khác và ngày nay chúng tôi có 8-10% trang trại không sử dụng kháng sinh trong bất kỳ giai đoạn nào và chúng tôi muốn tăng quy mô này”.

Trong khi đó, các nhà sản xuất tôm ở Ecuador đang chờ sự mở cửa của thị trường Braxin, sau khi đã đăng ký xuất khẩu tôm.

Camposano cho biết: “Các công ty đã được phép xuất khẩu và đang chờ đợi việc ghi nhãn được chấp thuận”, ông nhấn mạnh rằng việc xuất khẩu tôm không gây nguy cơ cho sản xuất tôm của Braxin, do Hiệp hội các nhà sản xuất tôm địa phương ABCC, Braxin đã tuyên bố phản đối việc tự do hoá thị trường tôm trong nước.

HNN (Theo undercurrentnews)

Triển vọng mô hình nuôi tôm hữu cơ hiệu quả cao


Sản xuất hữu cơ là một trong những ngành sản xuất xanh có thể mang lại giá trị cho các sản phẩm của Việt Nam như tôm hữu cơ trên thị trường thế giới. Đồng thời, việc nuôi tôm theo hướng hữu cơ cũng hỗ trợ trong tiến trình bảo vệ bền vững dải ven biển của ĐBSCL.

Mô hình nuôi tôm hữu cơ

Hiện nay, mô hình nuôi tôm hữu cơ được một số tỉnh áp dụng như Cà Mau, TP Hồ Chí Minh đem lại hiệu quả bền vững.

Tại  TP Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Văn Nam, Chủ tịch UBND xã An Thới Đông (huyện Cần Giờ), cho biết: Vài năm trước, nhiều hộ nuôi tôm sú trong xã bị thua lỗ do môi trường nước ô nhiễm, bà con đã chuyển sang nuôi tôm hữu cơ, phát huy tốt lợi thế, mang lại hiệu quả thiết thực.

Xã An Thới Đông hiện có diện tích nuôi tôm sú khoảng 1.300 ha, trong đó nhiều hộ tự học hỏi kinh nghiệm nuôi tôm sú hữu cơ an toàn với diện tích từ 5 đến 7ha/hộ. Anh Đỗ Mạnh Hùng, trú tại ấp Doi Lầu, một chủ trang trại đang đầu tư ao tôm sú hữu cơ rộng 5ha, chia sẻ: “Hằng tuần, chúng tôi đều được cán bộ kỹ thuật của xã và Hội Nông dân hướng dẫn phương pháp chăm sóc tôm. Trung bình một héc ta, gia đình tôi đầu tư làm sạch ao, trải bạt xung quanh, xử lý nước… hết khoảng 20 đến 25 triệu đồng, tùy thời vụ. Song, cách nuôi hữu cơ bảo đảm cho con tôm phát triển ổn định, không bị dịch bệnh lây lan. Vì thế, cứ mỗi vụ tôm, thường 6 - 7 tháng/vụ, gia đình tôi thu hoạch được tôm sú loại 20 - 25 con/kg với giá khoảng 180.000 đồng/kg. Lãi suất cao hơn 10.000 đồng/kg so với cách nuôi thường”.

Nuôi tôm hữu cơ và nuôi tôm thông thường

có những điểm khác so với nuôi tôm sú theo phương pháp thông thường. Nguồn nước và môi trường là quan trọng nhất. Nguồn nước trước khi đổ vào ao tôm phải là nước biển sạch, có thả một số loại cá để giữ sinh thái ổn định. Sau ít ngày nước lắng đọng tạp chất xuống thì mới bơm nước biển mặn đó vào ao tôm, rồi thả tôm giống xuống. Ao tôm phải trải bạt từ phần tiếp giáp mặt nước đến tận đáy; mặt đáy ao là đất hữu cơ bình thường, không sử dụng bất cứ loại hóa chất nào. Con tôm sú giống được nuôi bằng bã đậu nành ủ với men chua trong vòng 45 ngày, sẽ nhanh lớn và tăng trưởng an toàn. Hiện nay, cách nuôi tôm này chi phí đầu tư thấp, hạn chế được dịch bệnh, không sử dụng kháng sinh nên phát triển khá nhiều tại huyện Cần Giờ. Theo thống kê, toàn huyện có hơn 20 ha, tập trung chủ yếu ở xã An Thới Đông và xã Lý Nhơn.

Đầu năm 2016, xã An Thới Đông có hai hộ thực hiện chuyển đổi mô hình sản xuất từ nuôi tôm thông thường sang nuôi tôm công nghiệp trải bạt lưới và nuôi tôm bằng thức ăn hữu cơ với tổng diện tích 12ha; mức đầu tư chuyển đổi khoảng 500 triệu đồng/ha.

Tính đến nay, sản lượng thu hoạch sau chuyển đổi mùa thuận đạt 40 tấn/ha, mùa nghịch đạt 10 tấn/ha. Thu nhập bình quân mỗi năm gần 1 tỷ đồng/ha, cao hơn nhiều so với cách nuôi tôm trước đây, góp phần nâng cao đời sống nông dân huyện Cần Giờ.

H.L (Tổng hợp)

Nuôi tôm là nuôi nước


Trong năm 2015, hiện tượng tôm chết vì bệnh hoặc không rõ nguyên nhân trong khoảng 30 - 45 ngày đầu tiên hoặc chậm lớn xảy ra khá phổ biến ở nhiều vùng nuôi tôm trên cả nước. Nếu tôm giống có nguồn gốc rõ ràng, sạch bệnh thì nguyên nhân của các hiện tượng vừa nêu chủ yếu liên quan đến cách thức cải tạo ao hoặc quản lý chất lượng nước. Kinh nghiệm thực tiễn đã khẳng định người nuôi tôm sẽ thành công hơn nếu thực hành được nguyên tắc cốt lõi “nuôi tôm là nuôi nước”.

Để “nuôi” được nước, chúng ta cần hiểu về yêu cầu chất lượng nước ban đầu và diễn biến điển hình của nó trong một vụ nuôi. Hơn nữa, đánh giá chất lượng nước bằng cảm quan chỉ hiệu quả với những người đã có nhiều năm kinh nghiệm. Nếu bạn mới bắt đầu nuôi tôm, cần phải thực hiện một cách nghiêm túc các công đoạn trong quá trình cải tạo ao, dự đoán thời điểm có thể xảy ra sự cố và thường xuyên quan trắc các yếu tố môi trường quan trọng trong suốt quá trình nuôi.

Tôm thẻ chân trắng là loài rộng muối. Nhờ vậy chúng được thả nuôi ở cả 3 vùng nước: mặn, lợ và ngọt. Tuy nhiên, độ mặn chỉ là một trong nhiều yếu tố môi trường cần phải kiểm soát. Không phải nguồn nước cấp nào cũng có tính chất tự nhiên thuận lợi cho việc nuôi tôm. Các yếu tố môi trường cơ bản của nguồn nước ban đầu cần được kiểm tra gồm độ mặn, độ pH, độ kiềm và hàm lượng chất hữu cơ.

Độ mặn phù hợp để nuôi tôm thẻ chân trắng dao động từ 5 – 35 %o. Những vùng có độ mặn thấp hơn 5 %o thường có độ kiềm thấp (20 – 60 mg CaCO3/l), khiến cho pH biến động lớn hoặc không đáp ứng được nhu cầu về khoáng của tôm nuôi. Gặp trường hợp này người nuôi tôm cần bón vôi, bổ sung thêm khoáng tổng hợp và kali (K+). Khi cần nâng nhanh độ kiềm trong ao, ví dụ như sau khi tôm lột xác, nên sử dụng NaHCO3. Độ kiềm của nước trong ao cần phải được duy trì ở mức 80 – 120 mg CaCO3/L.

Để kiểm soát tốt dịch bệnh, độ pH của nước trong ao nuôi tôm nên được duy trì trong khoảng từ 7,2 – 7,8. Biên độ dao động cực đại trong ngày không quá 0,5. Kinh nghiệm sản xuất trong giai đoạn 2013 – 2015 cho thấy nếu kiểm soát pH ổn định trong khoảng này, cơ hội thành công rất cao. Để nâng độ pH, người nuôi tôm có thể dùng vôi. Để giảm độ pH thì đưa mật rỉ đường trực tiếp xuống ao hoặc sục khí với chế phẩm vi sinh tốt khoảng 24 – 36 giờ trước khi sử dụng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng hiệu quả tốt chỉ có nếu ao nuôi được đầu tư đầy đủ hệ thống quạt nước, giúp khuấy đảo và cung cấp đủ oxy.

Hàm lượng chất hữu cơ trong môi trường ao nuôi là yếu tố quan trọng cần được kiểm soát một cách chặt chẽ. Các nguồn nước bị ô nhiễm thường có hàm lượng chất hữu cơ cao, tạo điều kiện cho mầm bệnh phát triển và sẽ tiêu tốn nhiều oxy hòa tan. Giải pháp tốt nhất là sử dụng ao lắng. Khi các chất lơ lửng đã lắng xuống đáy, ta có thể bơm nước vào ao nuôi, chạy quạt liên tục vài ba ngày để các chất hữu cơ hòa tan hoặc chất lơ lửng có kích thước nhỏ có thể phân hủy hoàn toàn rồi hãy xử lý, diệt khuẩn bằng hóa chất. Xử lý nước khi hàm lượng chất hữu cơ còn cao luôn tốn kém hơn và không hiệu quả. Ngoài ra, sau mỗi vụ nuôi, lượng chất hữu cơ tồn tại ở đáy các ao đất là rất lớn. Cần phải cải tạo ao thật kỹ, phơi nắng 3 – 5 tuần để tia cực tím diệt hết khuẩn và các chất hữu cơ được oxy hóa, phân hủy hoàn toàn. Các cơ sở nuôi tôm thành công đều dành từ 6 – 8 tuần để cải tạo ao thật kỹ trước khi vào vụ nuôi chính để có thể nuôi liên tục 2 vụ. Thậm chí, có cơ sở lột cả bạt lót đáy ao và bờ ao để vệ sinh và lót lại trước khi tiến hành cấp nước, xử lý và thả tôm giống.

Nếu người nuôi tôm đã cải tạo ao kỹ, làm đúng qui trình, xử lý nước và tạo môi trường thuận lợi (chạy quạt, ủ phân bón và chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản để gây màu nước, phát triển thức ăn tự nhiên), ngăn chặn các vật trung gian lây nhiễm mầm bệnh vào ao thì tỉ lệ sống và tốc độ phát triển của tôm nuôi trong tháng đầu tiên thường chỉ phụ thuộc vào chất lượng tôm giống và mức độ chăm sóc mà cụ thể là cách cho ăn và quản lý thức ăn.

 Ngoại trừ các diễn biến bất thường của thời tiết, hầu hết các sự cố gặp phải trong ao nuôi ở các tháng nuôi thứ 2, 3 và sau đó đều có liên quan đến việc quản lý hàm lượng chất hữu cơ tích lũy trong môi trường. Ở tháng nuôi đầu, do tổng khối lượng của đàn tôm không lớn nên lượng thức ăn đưa xuống ao không nhiều. Thức ăn, nếu có dư thừa hoặc do tôm đột ngột giảm bắt mồi, cũng khó gây hậu quả nghiêm trọng và sẽ bị phân hủy để trở thành nguồn dinh dưỡng cho sự phát triển của tảo và các sinh vật khác trong ao. Tuy nhiên, theo thời gian và sự phát triển của tôm, lượng thức ăn đưa xuống ao từ tháng thứ 2 trở đi mỗi lúc một nhiều. Nguy cơ ô nhiễm là thường trực do thức ăn thừa, xác lột của tôm, do phân và các chất bài tiết mà tôm thải ra. Môi trường nước trở nên phì dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi cho tảo phát triển, làm cho độ pH biến động mạnh theo chiều hướng bất lợi. Sau đó tảo tàn có thể tiêu hao oxy hòa tan, sản sinh ra các độc tố gây yếu hoặc chết tôm nuôi. Nước mất màu, hàm lượng oxy hòa tan giảm mạnh, các chất khí độc bùng phát gây stress cho tôm. Lượng chất hữu cơ trong môi trường càng lớn, nguy cơ nhiễm độc NH3, NO2- hay H2S càng cao và có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Theo chu trình chuyển hóa, sau sự cố về tảo, sẽ là sự cố về NH3 hoặc H2S. Tiếp theo sẽ là sự cố về NO2-.

Để kiểm soát lượng chất hữu cơ, trước hết người nuôi tôm cần đầu tư hệ thống quạt nước, sục khí phù hợp và nâng dần công suất lên theo thời gian nuôi. Một ao nuôi tôm thẻ chân trắng mật độ 150 con/m2 theo thiết kế chuẩn, có diện tích khoảng 1.600 – 2.000 m2, muốn đạt hiệu quả cần được trang bị từ 4 – 5 giàn quạt nước, có công suất từ 2 – 3 mã lực/giàn. Trong tháng nuôi đầu tiên, chỉ cần chạy liên tục 1 giàn vào ban ngày và 2 giàn vào ban đêm là đủ. Nhưng từ tháng thứ 2 thì phải chạy liên tục 2 giàn vào ban ngày và toàn bộ vào ban đêm, đồng thời chuyển sang cho ăn bằng máy tự động để lượng thức ăn đưa vào môi trường duy trì ở mức thấp nhưng liên tục trong ngày. Nếu giám sát tốt (kiểm tra nhá, lặn xem đáy ao) thì sẽ hạn chế được nguy cơ cho ăn thừa. Từ tháng nuôi thứ 3 trở đi, nếu tôm phát triển tốt, lượng tôm trong ao nhiều, thì cần phải bổ sung thêm quạt nước hoặc sục khí đáy, đặc biệt là vào ban đêm hoặc những thời điểm tôm đang lột xác. Giàn quạt cần được bố trí sao cho có thể giúp gom tụ chất thải vào khu vực giữa ao để có thể siphon hết chất thải. Tần suất siphon tăng dần theo thời gian, từ 5 – 7 ngày/lần ở tháng thứ 1, đến 2 – 3 ngày/lần ở tháng thứ 2 và hàng ngày ở tháng thứ 3.

Tiếp theo, cần sử dụng chế phẩm vi sinh loại tốt hàng ngày để cải thiện tốc độ chuyển hóa của vật chất trong ao, giúp cho môi trường được sạch và ổn định. Sự phát triển của các lợi khuẩn có trong chế phẩm vi sinh còn ức chế các vi sinh vật gây bệnh. Để giảm chi phí và tăng hiệu quả sử dụng, người nuôi tôm cần tìm hiểu và thực hành qui trình nuôi tăng sinh khối lợi khuẩn đơn giản (Hình 2, xem chi tiết ở trang 73 tài liệu “Thực hành nuôi tôm thẻ chân trắng hiệu quả, bền vững” của Skretting Vietnam 2015). Lưu ý là hiệu quả của lợi khuẩn chỉ có nếu hàm lượng oxy hòa tan của nước trong ao được duy trì ở mức cao và môi trường nước được khuấy đảo thường xuyên.


Hình 4: Tôm nuôi phát triển tốt sau 43 ngày thả trong môi trường giàu oxy, chất lượng nước được quản lý tốt.

Về cơ bản, người nuôi cần phải dự báo tốt diễn biến của môi trường nước trong ao nuôi hoặc các thay đổi bất thường của thời tiết để có biện pháp can thiệp trước khi sự cố xảy ra hoặc can thiệp kịp thời khi chúng mới nảy sinh. Một khi môi trường nước ao đã trở nên bất lợi thì giải pháp tốt nhất là thay nước, kể cả sử dụng nguồn nước chưa kịp xử lý nếu việc thay nước là khẩn cấp nhằm làm giảm ngay hàm lượng của các chất gây ô nhiễm hoặc mật độ tác nhân gây bệnh. Làm tốt những điều nêu trên và luôn tâm niệm “nuôi tôm là nuôi nước”, chắc chắn thành công sẽ sớm đến và đến nhiều hơn với bạn.

PGS TS Hoàng Tùng

Phân tích thông số chất lượng nước khả thi trong nuôi tôm


Muhammad Kasnir và ctv, Đại học Indonesia Moeslim, Indonesia, thực hiện các nghiên cứu hóa lý tài nguyên nước ở quận Mangara Bombang, Nam Sulawesi về những vấn đề liên quan đến tiềm năng trong nuôi tôm.

Giới thiệu

Sản xuất tôm sú ở Nam Sulawesi đạt khoảng 12.599,50 tấn trong năm 2007. Trên thế giới, sản xuất tôm xếp hạng thứ tư sau quần đảo Riau, Sumatra Bắc và Tây Java. Sản lượng sản xuất tôm sú chủ yếu ở Regencies, trong đó có những khu vực ven biển ở tỉnh Nam Sulawesi. Một trong số đó là Takalar Regency, đặc biệt là ở quận Mangara Bombang. Tiềm năng của ngành thủy sản có thể được phát triển trong khu vực ven biển của Mangara Bombang là nuôi tôm trong ao.

Nuôi tôm trong ao được mở rộng để trở thành một ngành công nghiệp sinh học thực phẩm và được chứng minh là nguồn mang lại ngoại hối, cung cấp protein động vật và tạo cơ hội việc làm. Sự tồn tại của ngành phụ thuộc vào hỗ trợ mở rộng thị trường, giá cả ổn định, hỗ trợ kỹ thuật trong quá trình sản xuất, thương mại, quỹ đất tiềm năng và chính sách hỗ trợ từ Chính phủ làm cho các mặt hàng tôm liên tục phát triển và ngày càng mở rộng như là hàng hóa tuyệt vời để gia tăng ngoại hối. Tuy nhiên, nuôi trồng thủy sản bền vững trong ao tăng cao phụ thuộc vào các khía cạnh năng động từ chất lượng môi trường ven biển như là kết quả của bất kỳ sự tương tác giữa người sử dụng ở các khu vực ven biển, bên cạnh các hoạt động nuôi trồng thủy sản ao nội tại.

Mangara Bombang là một trong những huyện nằm ở khu vực ven biển Takalar Regency, trong đó tiềm năng nuôi trồng thủy sản tiếp tục phát triển. Do đó, nơi đây được chọn là một trong những trung tâm khu vực phát triển nuôi trồng thủy sản của Chính phủ Takalar Regency. Trồng rong biển và nuôi tôm là một trong những hoạt động nuôi trồng thủy sản phát triển trong thời gian hiện nay ở quận này. Toàn bộ ao ở khu vực ven biển của Mangara Bombang là 863,097 ha. Trong đó có 35,98 ha và 827,117 ha sử dụng một công nghệ thâm canh và thâm canh truyền thống vào việc quản lý tương ứng.

Chính phủ Takalar qua Marine và Dịch vụ thủy sản, vào năm 2008 thiết lập kế hoạch chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản và một trong số đó là sự phát triển nuôi trồng thủy sản trong ao. Đặc biệt ở quận Mangara Bombang có 1.851 ha và 335 ha khu vực ven biển được sử dụng nuôi tôm đơn canh và phát triển mô hình tôm cá với mục tiêu sản xuất 2.696,13 tấn và 125,10 tấn.

Ngoài hoạt động nuôi tôm, những ao trong khu vực ven biển của huyện Mangara Bombang trong thời gian hiện tại và cũng đang phát triển trong tương lai sẽ dẫn đến thiệt hại về môi trường nước trong một ngày gần nhất nếu không có bất kỳ sự quản lý tốt. Sự tồn tại của môi trường nước bị ô nhiễm cuối cùng sẽ đe dọa tính bền vững của nguồn lợi cá tôm trong ao. Vì vậy, nghiên cứu này nhằm mục đích xác định điều kiện chất lượng nước cho sự bền vững của nghề nuôi tôm ao ở khu vực ven biển của huyện Mangara Bombang. Nghiên cứu này được dự kiến ​​sẽ cung cấp thông tin cho nông dân nuôi tôm ao để tăng sản xuất. Ngoài ra, các dữ liệu thu được có thể được sử dụng như là các dữ liệu hỗ trợ trong xây dựng chính sách của Chính phủ đối với việc lập kế hoạch và quản lý diện tích ao nuôi tôm.

Địa điểm và thời gian nghiên cứu

Nghiên cứu này đã được thực hiện ở khu vực trang trại nuôi tôm trong những khu vực ven biển của huyện Mangara Bombang, Takalar Regency, Nam Sulawesi, Indonesia bắt đầu từ tháng 6 năm 2010 đến tháng 7 năm 2010.

Phương pháp nghiên cứu

Việc thu thập dữ liệu và sinh lý chất lượng nước bao gồm chất lượng ao đất, chất lượng nước, hải dương học (thủy triều, tốc độ và độ sâu), chất lượng trầm tích nuôi tôm và các vùng nước ven biển dữ liệu đất tại địa phương. Dữ liệu chất lượng đất tại ao được thu thập từ 10 trạm ở một số ao. Trong khi đó, đối với các vùng nước ven biển, chất lượng nước được thu thập dữ liệu từ 6 trạm gồm 2 trạm sông, 2 trạm ao và 2 trạm từ cửa sông. Hơn nữa, dữ liệu chất lượng bề mặt cơ sở nuôi tôm, chất lượng trầm tích trang trại và các vùng nước ven biển được thu thập từ 2 trạm và 13 điểm lấy mẫu tương ứng.

Dữ liệu và dữ liệu nguồn

Dữ liệu sơ cấp và thứ cấp được sử dụng trong nghiên cứu này. Dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua quan sát và phỏng vấn trực tiếp tại địa điểm trong khi nghiên cứu, dữ liệu thứ cấp được thu thập thông qua việc tìm kiếm tài liệu tham khảo khác nhau ở một số cơ quan của chính phủ và phi chính phủ có liên quan đến nghiên cứu. Một số thông số chất lượng nước được liệt kê trong bảng 1 đó là những thông số quan trọng góp vào thành công trong nuôi tôm. Việc giám sát và thu thập mẫu của chất lượng nước được thực hiện trực.

Kết quả và thảo luận

Chất lượng nước là một trong những yếu tố quan trọng trong việc xác định thành công các hoạt động của nghề nuôi tôm.

Nhiệt độ nước

Đo nhiệt độ nước trong nuôi tôm theo hướng truyền thống đã thu được nhiệt độ là 29,56 ± 0.75°C. Trong khi đó, nhiệt độ của nước ao cho thấy kết quả đo nhiệt độ ở các vùng nước ven biển và sông là 28,56 ± 2,72°C, 26,77 ± 1,94°C. Quan sát nhiệt độ cho thấy nằm trong khoảng thích hợp nuôi tôm. Báo cáo của Boyd, Poernomo, Widigdo, Soewardi phạm vi nhiệt độ từ 20 đến 32°C là những giá trị nhiệt độ được khuyến cáo trong nuôi tôm và từ 29 đến 30°C là nhiệt độ tối ưu cho sự phát triển tôm nuôi.

Độ mặn

Kết quả đo độ mặn cho thấy độ mặn thu thập được trong vùng nước sông và ven biển vẫn còn trong các giá trị khuyến nghị cụ thể là 17.95 ± 3.79 ‰ và 30.90 ± 4.01 ‰. Theo Boyd, Poernomo, Widigdo, Soewardi, độ mặn từ 5 – 35 ‰ rất thích hợp cho nuôi tôm và độ mặn từ  15 – 25 ‰ là độ mặn khuyến cáo cho sự phát triển tối ưu của tôm.

pH

Kết quả đo pH ở những vùng nước nuôi tôm trong 24 giờ là 8,17 ± 0,38. pH của nước ao thu được là khoảng 8,06 – 8,17, trong đó, pH cao nhất (8,17) là 12.00 – 13.00 và thấp nhất là 01.30 và 03.30 – 04.00. Kết quả đo pH ở sông và vùng nước ven biển tương ứng là 7,77 ± 0.42 và 8,06 ± 0.40. Giá trị pH vẫn còn trong khoảng thích hợp cho nuôi tôm là 6,5 – 8,5 với ngưỡng pH tối ưu là 8,0 – 8,5 (ngưỡng cho phép 6 – 9).

Oxy hòa tan

Duy trì hàm lượng DO ở mức phù hợp trong ao nuôi là điều rất quan trọng quan trọng cho sự sống còn của tôm và khi tiếp xúc kéo dài với stress oxy ở nồng độ thấp có thể ức chế sự tăng trưởng tôm. Nghiên cứu này tập trung vào DO và xem đây là điều hiển nhiên chấp nhận được đối với một ao tôm. Trong thời gian quan sát, nồng độ oxy hòa tan ở những vùng nước dao động 6.65 ± 1.08 mg/l. Trong khi đó, nồng độ oxy hòa tan trong trại nuôi tôm trong 24 giờ sau khi quan sát dao động 5,89 – 6,02 mg/l với oxy hòa tan cao nhất là (6,02 mg/l) là 12.00 giờ và mức thấp nhất (5,89 mg/l) là 20.00 giờ. Ngoài ra, nồng độ oxy hòa tan trong sông và vùng nước ven biển tương ứng là 6,02 ± 0,86 và 5,88 ± 1,42 mg/l. Giá trị này vẫn còn thích hợp cho nuôi tôm theo báo cáo của Boyd, Poernomo, Widigdo, sự bão hòa oxy hòa tan trong nuôi tôm là ≥ 3 mg/l (3 -10 mg/l) và ngưỡng oxy tối ưu từ 4 – 7 mg/l. Cheng và ctv báo cáo rằng giá trị DO cao hơn 5 mg/l thường được đề nghị cho thực hành nuôi thâm canh.

Tổng số chất rắn lơ lửng (TSS)

Kết quả đo cho thấy giá trị TSS trong nuôi tôm là 37,73 ± 12,44 mg/l, trong khi đó, giá trị TSS trong trại nuôi tôm truyền thống là 55,20 ± 10,54 mg/l. Hơn nữa, giá trị này ở vùng ven biển và sông là 58,17 ± 22,18 mg/l và 60,13 ± 15,45 mg/l. Tuy nhiên, TSS vẫn còn trong giới hạn sai lệch ở mức cho phép trong báo cáo của Widigdo, Bộ Môi trường cho trang trại nuôi tôm là 25 – 80 mg/l.

Nhu cầu oxy sinh hóa/BOD5

Đo BOD5 với giá trị là 1,16 ± 0.53 mg/l, trong khi đó, giá trị BOD5 cho các vùng ven biển và sông là 0,74 ± 0.27 mg/l và 1,32 ± 0.80 mg/l. Giá trị BOD5 vẫn còn thích hợp cho nuôi tôm dựa trên giá trị khuyến cáo BOD5 của Bộ Môi trường (2004) là < 25 mg/l. Xét về mức độ ô nhiễm, chất lượng nước ven biển của huyện Mangara Bombang nằm trong khu vực không bị nhiễm và rất thích hợp cho nuôi tôm.

Amoniac (NH3-N)

Quan sát amoniac (NH3-N) trong các vùng nước nuôi tôm là 0,02614 ± 0,3355 mg/l. Trong khi đó, kết quả đo amoniac (NH3-N) ở các vùng nước ven biển và sông là 0,2636 ± 0,3303 mg/l và 0,1101 ± 0,0812 mg/l. Giá trị ammonia vẫn còn trong lưu giới hạn cho phép nuôi tôm dựa trên ammonia (NH3-N) theo thông tin từ Boyd, Poernomo, Widigdo, Bộ Môi trường là < 1,0 mg/l.

Nitrite (NO2)

Đo hàm lượng Nitrite (NO2) trong các vùng nước nuôi tôm là 0,0555 ± 0,0956 mg/l. Trong khi đó, nitrite (NO2-N) ở các vùng nước ven biển và các con sông là 0,2483 ± 0,5690 mg/l và 0,0250 ± 0,0074 mg/l. Giá trị này vẫn còn trong giới hạn cho trang trại nuôi tôm dựa trên các giá trị cho phép theo khuyến cáo là < 0,25 mg/l.

Nitrate (NO3-N)

Hàm lượng Nitrate (NO3-N) ở các vùng nước nuôi tôm là 0,0115 ± 0,0104 mg/l. Trong khi đó, Nitrate (NO3-N) ở vùng nước ven biển và sông là 0,0110 ± 0,0141 mg/l và 0,0924 ± 0,1241 mg/l. Lượng Nitrate (NO3-N) thu thập được chỉ ra rằng Mangara Bombang là khu vực thích hợp cho nuôi tôm.

Orthophosphat (PO43- – P)

Phosphate (PO4-P) thu được ở các vùng nước ao nuôi tôm, vùng ven biển và sông vẫn còn trong giới hạn giá trị cho phép nuôi tôm với giá trị lần lượt là 0,0201 ± 0,0051, 0,0583 ± 0,0648 và 0,0051 ± 0,0037 mg/l. Theo báo cáo của Boyd; Poernomo; Widigdo; Bộ Môi trường, giới hạn giá trị của Phosphate (PO4-P) thích hợp cho hoạt động nuôi tôm là 0,05-0,5 mg/l.

Độ đục

Quan sát giá trị độ đục trong ao tôm là 9,69 ± 3,41 NTU, kết quả thu được trong các vùng nước ven biển và sông là 14,44 ± 17,65 và 21,42 ± 4,43 NTU. Giá trị độ đục vẫn trong giới hạn sai lệch trong nền công nghiệp tôm. Nhìn chung, chất lượng nước ở các khu vực ven biển của huyện Mangara Bombang phù hợp hoặc có thể hỗ trợ cho các hoạt động nuôi tôm dựa trên các tiêu chí được đề nghị bởi Boyd, Poernomo, Widigdo, Soewardi và Bộ Môi trường.

Kết luận

Nghiên cứu này cung cấp các thông tin về tình trạng chất lượng nước của Quận Mangara Bombang và hoàn toàn phù hợp cho nuôi tôm trong ao. Quan sát thực địa chất lượng nước và trong phòng thí nghiệm tiết lộ rằng các khu vực nghiên cứu có tiềm năng phát triển nuôi tôm ao dựa trên các giá trị thu hoàn toàn phù hợp với các giá trị được khuyến nghị cho nuôi tôm.

Góp ý

Để tiếp tục nghiên cứu về tính khả thi của chất lượng nước cho sự phát triển của nghề nuôi tôm theo công nghệ nuôi thâm canh và bán thâm canh nhằm thu được hình ảnh tổng quan về tính khả thi chất lượng nước cho phát triển nuôi tôm ở các công nghệ nuôi khác nhau.

Những kỹ thuật khi nuôi tôm càng xanh

Những kỹ thuật nuôi tôm càng xanh

1. Chuẩn bị ao nuôi:

*Ao nuôi:

- Hình dạng và kích cỡ ao nuôi: Ao không có gì lạ hoặc đặc biệt hình chữ nhật , kích cỡ phù hợp và phổ thông là 0.2-0.6 ha. Mức nước phù hợp từ 0.7-0.9m. Bờ ao phải kiên cố , không rò rỉ , không hang hốc làm nơi trú ẩn cho các sinh vật hại tôm. Mặt bờ rộng ít nhất là 2m nhằm giúp cho việc đi lại chăm sóc tôm thuận tiện. Độ nghiêng đáy ao từ 3-5%.

- Cống: Mỗi ao nuôi cần ít nhất là một cống ( cống gỗ hay cống xi măng dạng lỗ hay dạng ván phay ). Nếu có hai cống thì đặt một cống cấp nước, một cống tiêu về 2 phía của ao nuôi. Kích cỡ cống tùy thuộc vào kích cỡ ao nuôi cũng như khả năng thoát nước cho ao vào mỗi khi nước cao( cống phải đảm bảo thoát từ 20-30% lượng nước ao nuôi vào mỗi lần nước lên).

- Những ao diện tích nhỏ hơn 500 m2 có thể đặt 1-3 cống lỗ xi măng hay cống bọng dừa với đường kính 20-30 cm.

- Bơm: máy nhỏ di động cũng rất cần thiết cho ao nuôi tôm , máy bơm giúp thay nước ao theo định kỳ hay vào những lúc nước ao bị dơ bẩn.

- Trong nuôi tôm , chuẩn bị ao nuôi đóng vai trò rất quan trọng, để có một ao nuôi tôm tốt nên làm các bước sau:

  + Vệ sinh ao: sau mỗi vụ nuôi , ao nhất thiết phải sên vét lớp bùn đáy nếu có xác xuất nên loại bỏ hết lớp bùn lắng tụ ở đáy , mầm bệnh và khí độc.

  + Phơi đáy ao: ao cần phơi khô đáy 2-7 ngày , nghề nghiệp này giúp oxy hóa các vật chất hữu cơ còn lại ở đáy đồng thời gii phóng các khí độc như H2S , NH3 , CH4... Trong suốt đất đáy ao. Tuy nhiên các ao đáy bị phèn không được phơi đáy ao quá khô và cày bừa thì sẽ là tầng sinh phèn ( pyrite ) bị oxy hóa và gây nước ao bị phèn. Lớp đất bị phèn nên loại bỏ khỏi bờ ao hay có kế hoạch xử lí nếu không chúng cũng bị oxy hóa và tạo phèn chôi xuống ao khi trời mưa.

  + Kiểm tra pH đất đáy ao: việc này giúp rõ ràng đúng lượng vôi sử dụng nhằm nâng pH nước lên cao nếu cần. Phương pháp đo pH đất đáy ao giản đơn là lấy một ít đất đáy ao đem pha tạp với nước ở tỷ lệ 1:1 rồi dùng máy đo trực tiếp hay dùng giấy quì tím ( khi dùng giấy quì thì nhỏ cẩn trọng 1-2 giọt vào một mặt giấy và coi mắt kia ). Bón vôi cho ao: phân bón giúp phát triển thức ăn tự nhiên, phân sử dụng thường là phân heo , gà với lượng từ 25-30kg/100m2. Bón phân 1-2 ngày thì tiến hành lấy nước vào ao ở mức 30-40cm và giữ 1-2 ngày để tảo phát triển , trước khi tăng mức nước lên 60cm.

  + Trong trường hợp có cá tạp xuất trong ao thì phải diệt trước khi đưa đủ nước để thả giống. Bột trà ( chứa saponine 10-13% ) dùng 20 mg/l , hay dây thuốc cá ( chứa retenone ) dùng 4g/m3. Tuy nhiên , tính độc của saponine và retenone xảy ra mạnh ở nhiệt độ cao do vậy nên chọn thời gian tốt nhất để diệt. Một ngày sau khi sử dụng hóa chất thì tiếp tục lấy nước vào ( qua lưới mịn ) đến khi mức nước đạt 0 , 7-0 , 9m thì kiểm tra thuốc nước , nếu thuốc nước đạt 30-40cm thì có thể tiến hành thả tôm nuôi.

Tôm càng xanh. Ảnh minh họa.

*Thả giống nuôi

Tùy theo kích cỡ giống và cách thức nuôi ( nuôi đơn hay nuôi kết hợp ) và mức độ thâm canh mà mật độ thả có khác nhau.

Trong nuôi đơn: tôm càng xanh giống tự nhiên ( 3-5g/con ) có xác xuất th ở mật độ 4-6 con/m2 , còn với tôm giống nhân tạo cỡ ( 0 , 5g/con ) thì thả 10-15 con/m2.

Trong trường hợp nuôi kết hợp với cá ( như chép , rôphi , mè trắng , mè vinh... ) thì mật độ thả từ 2-3 con/m2 đối giống tự nhiên , và 8-10 con/m2 đối với giống nhân tạo. Mật độ thả cá ngả nghiêng từ 2-3con/m2 tính chung cho các loài cá.

bây giờ , trong nuôi tôm càng xanh việc thả giống đơn tính ( toàn đực ) cũng đang được chú ý bởi lẽ tôm đực lớn nhanh và cho sản lượng cao. Tuy nhiên , việc tách đàn tôm đực và cái đối với tôm kích cỡ nhỏ thường khó thực hiện thực hành. Có các cách thường ứng dụng như sau:

- Tôm giống cỡ 2g có thể dựa vào lỗ sinh dục ở gốc chân ngực năm để phân biệt.
- Tôm giống từ 1g trở lên có thể dựa vào nhánh phụ sinh dục ở chân bụng thứ nhất.
- Tôm giống từ 2g trở lên cóthể dựa vào gờ cao ở đốt bụng thứ nhất.

Các cách nêu trên không có gì lạ, đặc biệt nhược điểm là khó thực hiện với một số lượng tôm lớn , dễ làm tôm giống bị xây xát gây hao hụt nhiều. Ngoài ra, có thể thả nuôi chung đực và cái và sau sau 3-4 tháng nuôi tôm cái sẽ mang trứng , trong trường phù hợp thu tôm cái bán và ngăn lại trong một giới hạn nhất định tôm đực nuôi tiếp.

2. Chăm sóc tôm:

Thức ăn và cho ăn: có thể  sử dụng 2 dạng thức ăn đó là thức ăn viên và thức ăn tươi sống. Mặc dù , bây giờ thức ăn tươi được dùng chủ yếu nhưng thức ăn viên hay thức ăn tự chế bổ sung cho tôm càng xanh cũng rất quan yếu nhằm bổ sung các vật chất cần thiết cho tôm. Nhìn chung , do việc nuôi tôm theo hình thức bán thâm canh tức thì thức ăn tự nhiên vẫn còn vai trò quan yếu nên cần dùng thức ăn có hàm lượng đạm từ 25-30%.

Để nuôi tôm càng xanh đạt hiệu quả cao

Đôi nét về con tôm càng xanh

Tôm càng xanh là loài giáp xác thuộc bộ mười chân ( Decapoda ) , họ tôm càng ( Palaemonidae ) , thường gặp ở các thuỷ vực nước ngọt và nước lợ thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Tôm càng xanh sống trong các vùng có có tác động đến một điều gì đó của hải triều và các hồ tự nhiên , hồ chứa , ao , đầm , kênh mương , ruộng lúa có nước lưu thông trực tiếp hay gián tiếp với các sông lớn.

Con tôm càng xanh. Ảnh minh họa.

Đặc điểm sinh học:

- Tôm càng xanh có đặc điểm ăn tạp , mắc chứng tham ăn, ăn rất nhiều và cũng vì thế tôm tăng trưởng cũng rất nhanh. Tôm trưởng thành thường ăn giun nước và tôm cỡ bé , các sâu bọ thuỷ sinh và động vật thối rữa. Ban ngày tôm hay chui rúc trong các bụi cây thuỷ sinh hoặc hang hốc , ban đêm chúng chuyển lên mặt nước và vào bờ kiếm ăn.

- Tôm càng xanh được nuôi chủ yếu từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau ( đối với các tỉnh miền Nam ).

- Tôm càng xanh lớn nhanh , thích nghi sống trong môi trường nước sạch , có lượng ôxy hoà trộn cao trên 5mg/l , pH = 7-7 , 5 , nhiệt độ 28 – 30 0C. Kích tấc tôm lớn nhất có bề dài 320mm , khối lượng 100g. Tôm cái trưởng thành khi đạt cỡ 20 – 25g , tôm đực cỡ 30 – 40g.

Gần đến thời kỳ đẻ, tôm mẹ theo dòng nước xuôi về cửa sông và đẻ trứng ở vùng nước lợ. Tôm mẹ có khả năng ôm 80.000 trứng. Trứng tôm nở trong vòng 20 ngày ở môi trường nước với nhiệt độ từ 26 -28oC. Ấu trùng phát triển trong nước lợ ( độ mặn 8 - 22‰ ) trong vòng 30 – 40 ngày , qua 12 lần lột xác, ấu trùng chuyển thành tôm con. Tôm con chuyển sang sống đáy , chuyển di ngược dòng nước đến các ao , đầm , kênh mương và ruộng lúa rồi lớn lên ở đó. Tôm con lớn đạt kích thước tối đa trong vòng 6 – 8 tháng sau nhiều lần lột xác.

Vị trí phân bố:

Trước đây tôm được nuôi nhiều và chủ yếu ở Đông Nam bộ, được khai thác nhiều trong tự nhiên. Hiện nay nghề nuôi tôm càng xanh thương phẩm đã phát triển rộng , lan rộng ra cả miền Trung và miền Bắc , với nguồn con giống phong phú và cho chất lượng cao.

Dựa vào biến hóa khác biệt rõ rệt về tốc độ sinh trưởng của tôm đực và tôm cái , khi thu hoạch tôm nuôi, con đực có kích tấc lớn hơn đáng kể so với con cái , do vậy việc tạo đàn tôm càng xanh toàn đực bằng các công nghệ chuyển đổi giới tính đang được hăng hái nghiên cứu và đã thu được một số kết quả bước đầu.

Bài viết được xem nhiều