Hiển thị các bài đăng có nhãn kinh nghiệm nuôi cá. Hiển thị tất cả bài đăng

Quy trình xử lý ao nuôi cá nước ngọt


Sau khi kết thúc vụ nuôi cũ và bắt đầu vụ nuôi mới, việc xử lý ao nuôi cá là một trong những thao tác vô cùng quan trọng, giúp loại bỏ khí độc, thức ăn thừa, mầm bệnh tồn tại trong nước áo, đáy ao. Đồng thời, đây cũng là cách tạo ra môi trường sinh trưởng, phát triển tốt nhất cho cá trong vụ nuôi mới. Vậy các thao tác xử lý ao nuôi cần được thực hiện như thế nào?

1. Làm sạch đáy ao

Thông thường, một vụ nuôi cá thường kéo dài trong khoảng 10-12 tháng. Với thời gian như vậy, đáy ao sẽ tích tụ rất nhiều thức ăn thừa, chất thải của cá cũng như nhiều vi khuẩn gây hại và mầm bệnh khác. Do đó, trong quy trình xử lý ao nuôi cá, việc bạn cần quan tâm đầu tiên chính là làm sạch đáy ao thông qua các thao tác như bơm cạn nước, nạo vét bớt bùn… Nếu như diện tích ao nuôi lớn, bà con có thể tận dụng sự trợ giúp của máy vét bùn, giúp việc thực hiện diễn ra đơn giản mà hiệu quả cao.

2. Bón vôi cho ao nuôi

Đây cũng là một trong những thao tác vô cùng quan trọng bởi sử dụng vôi là cách giúp bà con tiến hành khử trùng ao hiệu quả, đồng thời tạo điều kiện duy trì độ pH ở mức ổn định cũng như giúp các chất hữu cơ được phân hủy trong điều kiện tốt nhất. Bên cạnh đó, các vi sinh vật có lợi cũng sẽ phát triển nhanh và dễ dàng hơn. Khi bón vôi để cải tạo ao nuôi cá, bà con có thể sử dụng một trong hai loại vôi cơ bản hiện nay là vôi sống (CaO) hoặc đá vôi nghiền (CaCO­3). Tuy nhiên, vôi sống vẫn là lựa chọn tốt, được ưa chuộng hơn cả nhờ khả năng diệt khuẩn mạnh mẽ, giúp cân bằng pH tối ưu.

Để thực hiện thao tác này, bà con hãy rải đều vôi khắp ao cũng như bờ ao. Đặc biệt, với vị trí thường cho cá ăn, bà con cần bón nhiều vôi hơn so với thông thường. Lượng vôi sử dụng tùy thuộc vào độ pH đo được ở ao. Thông thường, ao thịt có pH ≥ 6,5 bón, bà con cần sử dụng vôi bón với tỉ lệ 5-7kg/ 100 m2. Trong khi đó, ao bị ô nhiễm, bị chua, lượng vôi sử dụng ở mức 10-15kg/ 100m2. Sau khi tiến hàng bón vôi, bà con hãy phơi ao trong khoảng 3-5 ngày trước khi tiến hành cấp nước.

3. Cấp nước cho ao nuôi

Sau khi thực hiện các bước xử lý ao nuôi cá trên, bà con có thể tiến hành cấp nước cho ao nuôi cũng như thực hiện các thao tác gây màu nước. Nước trước khi được bơm vào ao cần được lọc kỹ để loại bỏ tạp chất, vi khuẩn cũng như ấu trùng gây hại. Ngoài ra, bà con có thể sử dụng quạt nước trong vài ngày đầu để ấu trùng, trứng của mầm bệnh nở ra và xử lý với formol với liều lượng 30 lít/1.000 m3. Để giảm lượng Chlorine, sau khi sử dụng, bà con hãy sử dụng quạt nước thêm từ 2-3 ngày, giúp tạo ra môi trường nước tốt nhất.

Khi nước đã chuẩn bị xong, bà con hãy tiến hành các thao tác gây màu nước cho ao nuôi cá. Đây là một bước quan trọng, giúp môi trường ao nuôi đảm bảo ổn định, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của các vi sinh vật có lợi mang đến nguồn thức ăn bổ dưỡng hoàn toàn tự nhiên cho cá. Để gây màu nước, bà con có thể sử dụng phân hữu cơ hoặc phân vô cơ đều được. Khoảng 2-3 ngày gây màu nước, bà con có thể tiến hành thả cá.

Trên đây là quy trình xử lý ao nuôi cá sau khi kết thúc vụ nuôi cũ và bắt đầu vụ nuôi mới mà bà con có thể tham khảo và áp dụng. Điều này sẽ giúp giảm chi phí thức ăn khi thả nuôi cũng như giúp phòng ngừa bệnh cho cá một cách tối ưu nhất.

Muốn phát triển bền vững ngành cá tra, cần nguồn giống chất lượng cao


Theo ý kiến nhiều chuyên gia, chất lượng con giống suy giảm và không đảm bảo là yếu tố ảnh hưởng nghiêm trọng, trực tiếp đến sản lượng cá tra hiện nay.

Cá tra là đối tượng nuôi nước ngọt phổ biến ở vùng ĐBSCL, đồng thời là sản phẩm chủ lực của ngành thủy sản Việt Nam sau con tôm. Tuy nhiên, thời gian qua do chất lượng cá giống ngày càng suy giảm ảnh hưởng nghiêm trọng, trực tiếp đến sản lượng, năng suất và hiệu quả kinh tế của các cơ sở nuôi.

Để cung cấp con giống chất lượng cao cho các hộ nuôi tại khu vực ĐBSCL, định hướng xây dựng An Giang trở thành trung tâm giống cá tra công nghệ cao cung cấp con giống chất lượng cao theo hướng liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp.

Hiện nay, toàn vùng ĐBSCL có hơn 100 cơ sở cho sinh sản nhân tạo cá tra  và gần 1.900 hộ ươm dưỡng cá giống với diện tích khoảng 1.500ha; sản lượng cá bột sản xuất ước đạt hơn 16 tỷ con/năm, tập trung ở các địa phương như: Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ… trong đó An Giang là tỉnh sản xuất và cung ứng cá tra giống chủ yếu của khu vực với 1,5 đến 4 tỷ con/năm.

Tuy nhiên, thời gian qua chất lượng con giống suy giảm và không đảm bảo chất lượng, tỷ lệ hao hụt trong các ao nuôi, đặc biệt có những ao nuôi cá tra có tỷ lệ hao hụt 40%- 50%. Hầu hết các vùng nuôi đều xuất hiện bệnh phổ biến trên cá tra như: xuất huyết trắng mang, trắng gan, nhất là căn bệnh gan thận mủ… nguyên nhân là do đàn cá bố mẹ bị thoái hóa, lai cận huyết đã xuống cấp đến mức đáng báo động; sự cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các cơ sở sản xuất cá bột, cho cá đẻ ép, đẻ non và đẻ nhiều lần trong năm.

Điều này làm cho chất lượng cá giống ngày càng suy giảm ảnh hưởng nghiêm trọng, trực tiếp đến sản lượng, năng suất và hiệu quả kinh tế của các cơ sở nuôi.

Ông Nguyễn Thanh Tùng, Viện trưởng Viện Kinh tế và quy hoạch thuỷ sản, Bộ NN& PTNT cho biết: "Hiện nay, con giống chưa đảm bảo, dịch bệnh nhiều, sản xuất manh mún nên nguồn cung cho thị trường không ổn định. Vì vậy, nhu cầu cấp thiết nhất thời điểm này là chúng ta phải liên kết sản xuất giống 3 cấp chất lượng cao cung cấp cho ĐBSCL nhằm phát triển bền vững cho ngành cá tra hiện tại và tương lai".

Để có nguồn cá giống chất lượng cao cung cấp cả vùng ĐBSCL, Thủ tướng Chính phủ đã giao cho tỉnh An Giang xây dựng đề án “Liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp chất lượng cao cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long tại An Giang"; định hướng xây dựng An Giang trở thành trung tâm giống cá tra công nghệ cao cung cấp con giống chất lượng cao theo hướng liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp. Từ đó để từng bước đáp ứng đủ về nhu cầu con giống cá tra có chất lượng tốt cho vùng ĐBSCL, góp phần tái tạo ngành cá tra theo hướng bền vững và hiệu quả hướng đến quản lý chặt chẽ và bền vững thông qua các mối liên kết.

Theo ông Lâm Quang Thi, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, An Giang là địa phương có nguồn lao động dồi dào, điều kiện kinh tế - xã hội phù hợp; đồng thời có điều kiện địa hình thuận lợi để phát triển sản xuất cá tra. Đây cũng là một trong những cái nôi của giống cá tra, có nhà máy sản xuất cá tra lớn và cung cấp nguồn cá tra xuất khẩu lớn trong cả nước. Vì vậy chọn An Giang là địa phương triển khai và phát triển cá tra là hợp lý.

"Con cá tra hiện đang bấp bênh, điều đó đặt ra cho chúng ta một yêu cầu, phải hoàn thiện từ khâu sản xuất giống tới đầu ra của thị trường. Từ đó, đưa nó trở thành sản phẩm quốc gia, sản phẩm mang lợi thế so sánh của Việt Nam. Đặc biệt là khâu sản xuất cá giống nếu làm không tốt thì con cá tra vẫn tiếp tục bấp bênh".

Liên quan đến vấn đề này, tại hội thảo “Liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp chất lượng cao cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long tại An Giang" mới đây, các biểu đã thống nhất, việc thực hiện đề án “liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp chất lượng cao cho vùng ĐBSCL là cần thiết; tạo được nguồn giống tốt là rất quan trọng trong chuỗi sản xuất cá tra. Con giống là quan trọng trong phát triển cá tra, có con giống sạch bệnh là căn cơ mang lại hiệu quả cao, nâng chất lượng và thương hiệu.

Đơn vị cấp 1 sẽ là các viện nghiên cứu, các trường đại học tham gia nguồn lực và nghiên cứu; Cấp 2 là các trung tâm và doanh nghiệp sản xuất giống; Cấp 3 là các cơ sở ươm giống. Trong đó, doanh nghiệp là nòng cốt đóng vai trò quan trọng trong đề án; doanh nghiệp kết hợp với các hộ dân ươm giống đồng thời phối hợp với các cơ quan nghiên cứu để tạo ra giống tốt đảm bảo chất lượng. Đây thực sự là mong muốn chung của người làm giống, người nuôi cá thương phẩm và các cơ quan ban ngành nhà nước...

Ông Đặng Quốc Tuấn, Phó Chủ tịch HĐQT, Kiêm Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Việt Úc cho biết: "Những người tham ra phải thực sự tìm được giải pháp năng động, hiệu quả. Doanh nghiệp sẽ đóng vai trò vị thế là người dẫn đầu, có tiềm lực tài chính, tiềm năng quản trị để tìm công nghệ và đưa ra các giải pháp để phát triển; người dân là những người trực tiếp sản xuất, làm ra sản phẩm thì cần phải có tư duy cởi mở để đón nhận những tiến bộ về khoa học công nghệ. Trong chuỗi liên kết này thì mỗi người tham gia cần phải có gắng đóng góp nhiều hơn nữa cái vai trò của mình.

Còn về mặt chính sách, nhà nước nên đi theo hướng dài hạn như: sản xuất giống thì nên đề ra những chuẩn mực, bình đẳng và cả ngành phải vận hành theo chuẩn mực này và mục đích cuối cùng là hướng tới chất lượng thì nó sẽ tạo ra sự phát triển bền vững hơn cho ngành cá tra".

Theo ông Vũ Văn Tám, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT, mục tiêu đến năm 2020, cung cấp khoảng 50% nhu cầu giống cá tra và đến năm 2025 cung cấp 70% nhu cầu giống cá tra tương đương gần 2,5 – 2,8 tỷ giống cá tra cung cấp cho các địa phương tại khu vực ĐBSCL.

Điều này cho thấy tạo được nguồn giống tốt là rất quan trọng trong chuỗi sản xuất cá tra, do đó việc phải hoàn thiện "liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp" để tạo ra giống có chất lượng có tính di truyền chọn lọc có khả năng tăng trưởng nhanh, kháng bệnh, chất lượng thịt tốt... phục vụ cho nuôi thương phẩm là điều cấp thiết hiện nay, để phát huy tiềm năng, thế mạnh và phát triển bền vững thị trường cá tra.

"Bộ nông nghiệp sẽ hỗ trợ An Giang để hoàn thành đề án này, trong đó quy hoạch thành 3 vùng sản xuất giống tập trung, có sự đầu tư của ngân sách nhà nước đối với các cơ sở hạ tầng thiết yếu và có sự hỗ trợ về khoa học công nghệ và các chính sách khác, làm sao để tạo ra sản phẩm cá tra chất lượng cao khắc phục tình trạng hiện nay.

Tới đây Bộ cũng xây dựng hoàn thiện toàn bộ các quy chuẩn kỹ thuật, đặc biệt là quy định rất là cụ thể về điều kiện sản xuất, từ giống đến toàn bộ chuỗi sản phẩm cá tra. từ đó không những xây dựng thương hiệu, truy xuất được nguồn gốc, đáp ứng được tất các yêu cầu của thị trường, kể cả là thị trường khó tính nhất" - Thứ trưởng Vũ Văn Tám nhấn mạnh.

Cá tra là đối tượng nuôi nước ngọt phổ biến ở vùng ĐBSCL, đồng thời là sản phẩm chủ lực của ngành thủy sản Việt Nam. Việc liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp chất lượng cao là một khâu rất quan trọng trong chuỗi sản xuất cá tra góp phần để con cá tra phát triển bền vững./.

(Theo VOV)

[Tản mạn] Một số loại rêu hại phổ biến trong ao nuôi thủy sinh và cách xử lý


Hầu như tất cả những người trồng bể thủy sinh đều vấp phải vấn đề đâu đầu là rêu hại. Tìm ra nguyên nhân và cách khắc phục là điều mong mỏi rất lớn của nhiều người chơi. Tám tui xin đúc kết rất nhiều kinh nghiệm xương máu để chia sẻ cùng cả nhà. Chỉ một vài nguyên nhân hết sức vớ vẩn, kết cục buồn cho bể là bị rêu hại tấn công một cách dã man và không thương tiếc. Đây là những kinh nghiệm tham khảo từ các pro trong nghề, các bạn bè bên nước ngoài và dựa trên kinh nghiệm trồng bể trong thời gian qua của Tám tui, chắc chắn sẽ không thể tránh được thiếu sót. Rất mong cả nhà đóng góp ý kiến và chỉnh sửa để hoàn thiện tài liệu này.

Một số loại rêu hại điển hình trong bể thủy sinh:

Black Brush/Beard (Rhodophyta) – Rêu chùm đen
Brown Algae (Diatoms) – Tảo nâu
Blue Green (Cyanobacteria) – Rêu xanh
Cladophora
Fuzz Algae
Green Dust Algae (GDA) – Rêu bụi xanh
Green Spot (Choleochaete orbicularis) – Rêu đốm xanh
Green Water (Euglaena) – Nước xanh
Hair/Thread Algae – Rêu tóc, rêu chỉ
Staghorn (Compsopogon sp.)

1/ Black Brush/Beard (Rhodophyta) – Rêu chùm đen

Rêu chùm đen (Black brush hoặc hay được gọi là BBA) là một số loại rêu đỏ trong họ Rhodophyta. Hầu hết các loại rêu trong họ này là rêu nước mặn, nhưng một số loại tồn tại được trong nước ngọt lại rất thích tấn công bể của chúng ta. Loại rêu này có thể nâu, đen, đỏ hoặc xanh sẫm, rất nhanh chóng bao phủ các viền cây và lan xuống nền nếu không được kiểm soát.

Nguyên nhân:

Mất cân bằng chất dinh dưỡng, có khả căng bị dư thừa N, P, Fe. Nên để nồng độ nước ổn định ở mức: N(10-20ppm) P(0.5-2ppm), K(10-20ppm), Ca(10-30ppm), Mg(2-5ppm) Fe(.1ppm),
Độ pH quá thấp – Tám tui quan sát thấy các bể nuôi cá Ali thường không bao giờ có BBA. Theo nhiều nghiên cứu thì BBA thường sống ở môi trường có tính a xít cao, và rất đen đủi là đa số cây thủy sinh lại rất ưa môi trường PH thấp này.

Cách xử lý rêu chùm đen:

Tăng CO2 – việc này sẽ kích thích việc phát triển của các cây thủy sinh và sẽ hấp thụ hết chất dinh dưỡng thừa trong bể, nguồn sống của loại rêu chùm đen này.

Sử dụng một số loại hóa chất để xử lý như Oxy già (H2O2), diệt rêu của Excel, Dalch, sử dụng xi lanh để nhỏ vào các khu vực nhiễm bệnh. Các loại hóa chất này sẽ khiến cho rêu chùm đen bị chuyển thành ghi rồi trắng và chết.

Diệt bằng tay – Sử dụng bàn chải đánh răng và tay để gỡ càng nhiều càng tốt.

Sử dụng chất tẩy trắng – Nếu các loại cây có lá cứng bị dính rêu chùm đen, thuốc tẩy trắng sử dụng sẽ rất hiệu quả, sử dụng công thức 1:20 thuốc tẩy/nước, nhúng cây vào, rửa sạch và cho lại vào bể (chú ý rửa sạch kẻo chết tép và động vật)

Sử dụng phương pháp OxiClean – Chỉ sử dụng oxiclean và không dùng thêm cách nào khác.
Duy trì lịch vệ sinh và thay nước đều đặn theo ngày – 30% mỗi ngày, kết hợp các phương thức khác để tăng hiệu quả.

Sử dụng các loại động vật ăn rêu: Tép cảnh (Red cherry, tép Amano), cá bút chì, ottos.

Sử dụng đồng (không khuyến cáo) – Có rất nhiều chế phẩm diệt rêu sử dụng đồng để giết rêu chùm đen, nhưng rất tiếc là chúng sẽ giết luôn cây thủy sinh của bạn.

2/ Brown Algae (Diatoms) – Tảo nâu

Dấu hiệu

Tảo nâu, hoặc gọi là diatoms, có màu nâu, rậm, nhớt và phủ lên lá cây hoặc đá, các vật cứng. Loại này hiếm khi xuất hiện ở các bể được đầu tư đủ đồ và được chăm sóc kỹ.

Nguyên nhân:

Bể mới setup – Các bể mới làm nhiều chất dinh dưỡng thừa thường sinh ra loại tảo này.

Quá nhiều chất dinh dưỡng – Chất silic chính là nguyên nhân. Liên hệ với công ty cung cấp nước để mô tả chính xác về hàm lượng si líc trong nước để có hướng khắc phục.

Ống bẩn – đôi khi các ống của lọc ngoài bẩn có thể sẽ góp phần vào việc phát triển của tảo nâu.

Cách xử lý tảo nâu:

Thời gian – Chỉ cần chờ tảo nâu hấp thụ hết si líc trong bể và chúng sẽ tự nhiên biến mất.
Xử lý bằng tay – Sử dụng vợt và ống nước để hút các loại tảo nâu.
Động vật ăn rêu: Nên dùng ốc táo đỏ, tép cảnh (tép tiger và tép đỏ), ốc Nerita để xử lý loại tảo nâu này. Chúng cũng ăn luôn một số loại rêu hại khác.

3/ Blue Green (Cyanobacteria) – Tảo lam, vi khuẩn lam

Mặc dùng được gọi là một loại rêu, rêu xanh lam thực tế là một loại chất nhớt đầy vi khuẩn và dễ dàng phủ kín mọi thứ trong bể cá. Vi khuẩn lam (Cyanobacteria, đã từng bị gọi sai là tảo lam) là một ngành vi khuẩn có khả năng quang hợp. Một số loại vi khuẩn lam có cấu tạo đơn bào, trong khi một số loài khác tạo thành các chuỗi tế bào, thỉnh thoảng có một số tế bào dị hình. Những loài vi khuẩn này đã có mặt trên Trái đất cách đây khoảng 3,8 tỉ năm và đóng vai trò quan trọng trong các chu trình sinh địa hoá tự nhiên. Ở các tế bào dị hình, có thành dày, oxi không xâm nhập, có khả năng cố định Nito tự do: enzim notrogenaza, ATP, kị khí .. Loại tảo lam có màu xanh, đen hoặc tím, nhưng đặc biệt nhất là chúng có mùi như đất khi bị gỡ ra khỏi bể, chúng sẽ hấp thụ toàn bộ khí Ni tơ trong nước của bạn.

** Trước đây thì Tám tôi đã chia sẻ cách diệt tảo xanh trong ao nuôi cá của bà con nuôi thương phẩm, còn hôm nay xin chia sẻ cách xử lý cho hồ thủy sinh.

Nguyên nhân:

Hàm lượng Nitrates thấp – theo nhiều thí nghiệm của Tám tui với các bể ngoài trời, tảo lam thường xuyên xuất hiện khi nitrogen và nitrate bị hấp thu hết trong nước.

Giàu chất hữu cơ: Cho ăn quá nhiều, không có lọc tốt, cá chết cây thối sẽ tăng hàm lượng chất hữu cơ trong bể và sẽ tạo ra môi trường lý tưởng cho tảo lam phát triển.

Bóng đèn yếu – Ánh sáng yếu hoặc bóng đèn bị cũ sẽ dễ dàng gây ra loại tảo này. Cây thủy sinh giảm sức hấp thụ sẽ dẫn đến việc tảo lam xuất hiện để làm nốt nhiệm vụ hấp thụ dinh dưỡng trong bể trong môi trường ánh sáng thấp.

Hệ thống lọc nước kém – Hệ thống tuần hoàn lọc trong bể là điều kiện sống còn, một hệ thống lọc tốt chứa hệ vi sinh ngon lành sẽ xử lý các chất hữu cơ thừa rất tốt.

Cách xử lý tảo xanh:

Tăng nitrates – Châm nitrates đến hàm lượng 5ppm. Trồng nhiều cây phát triển nhanh – việc này sẽ giúp hấp thụ nguồn sống của tảo lam.

Tắt đèn – tảo lam sẽ chết khi tắt đèn. Sử dụng oxy già hoặc đồ của Excel, sử dụng xi lanh để bơm vào khu vực bị nhiễm tảo.

Sử dụng thuốc Erythromycin để diệt khuẩn và không ảnh hưởng đến cây thủy sinh.

4/ Cladophora – Rêu chùm

Nguyên nhân

Lây ra từ quả cầu rêu (Marimo Balls hoặc Moss ball): Do có cùng họ với quả cầu rêu, đôi khi các quả cầu rêu không được xử lý cẩn thận sẽ mang theo mầm của loại rêu chùm này.
Điều kiện bể khỏe mạnh – Rất không may, rêu chùm Cladophora lại ưa thích môi trường khỏe mạnh mà các cây thủy sinh đòi hỏi.

Cách xử lý rêu chùm:

Xử lý bằng tay – Sử dụng bàn chảy đánh răng, panh để gỡ loại rêu này. Sử dụng Oxy già H2O2 – dùng xi lanh để bơm vào chỗ nhiễm bẩn. Rất khó để xử lý 100% loại rêu này trừ khi bạn may mắn.

5/ Fuzz Algae – Rêu xoăn

Thường mọc ở các rìa lá cây, có dạng chùm và xoăn, lông.

Nguyên nhân:

Mất cân bằng dinh dưỡng – Nên đẩm bảo hàm lượng chất dinh dưỡng như sau: N(10-20ppm), P (0.5-2ppm), Ca (10-30ppm), Mg (2-5ppm), Fe (.1ppm).
Ít Co2 – Nên đảm bảo hàm lượng 20 – 30ppm Co2, chú ý đừng nhiều quá để ảnh hưởng đến hệ động vật.

Cách xử lý rêu xoăn:

Duy trì hàm lượng Co2 và đảm bảo cân bằng chất dinh dưỡng
Sử dụng động vật ăn rêu: Tép RC, tép Amano, Ottos, cá mún và hắc molly, cá bút chì và một số loại cá plecos.

6/ Green Dust Algae (GDA) – Rêu bụi xanh

Green Dust Algae (GDA) – Rêu bụi xanh giống như một màng xanh phim bẩn xuất hiện trên bề mặt kính. Chúng có xu hướng bám vào bề mặt kính, các loại đá và lá cây.

Nguyên nhân:

Rất không may, chúng ta chưa xác định nguyên nhân chính xác gây ra loại rêu hại này.

Cách xử lý rêu bụi xanh:

Mặc kệ – Rêu bụi xanh có một vòng đời riêng của chúng, nếu chúng ta cứ kệ cho chúng chạy đủ chu kỳ sống thì chúng sẽ cứng lại rồi rơi lả tả trong bể sau 21 ngày. Sau thời gian này, cạo sạch những phần còn dính lại trên kính, vệ sinh và thay nước đều.

Sử dụng dao cạo rêu bằng lưỡi inox không gỉ để cạo sạch thành kính

Ốc táo đỏ và Nerita – Hai loại ốc này có thể giúp chúng ta giảm đáng kể loại rêu bám kính này, dĩ nhiên là không thể xử lý hoàn toàn 100%.

7/ Green Spot (Choleochaete orbicularis) – Rêu chấm xanh

Rêu chấm xanh rất dễ sinh ra và bám trên thành kính của bể nếu chúng ta không thay nước đều đặn hoặc mất cân bằng dinh dưỡng trong bể. Rêu chấm xanh cũng có thể bám vào các loại cây lá cứng và sống lâu như Dương Xỉ, Ráy và Bolbitus.

Nguyên nhân:

Hàm lượng phostphate (PO4) thấp – gần như chính xác là do lượng PO4 trong nước thấp hoặc cạn kiệt.

Cách xử lý rêu chấm xanh:

Dùng dao cạo rêu – Sử dụng lưỡi dao cạo rêu bằng inox không gỉ để cạo sạch kính, đừng dùng bàn chải đánh răng vì sẽ khó lòng đánh hết được.

Châm thêm Phosphates đến hàm lượng 0.5 – 2.0 ppm. Sử dụng ốc Nerita để xử lý một phần rêu.

8/ Green Water (Euglaena) – Nước bị nhớt xanh

Nước xanh là hiện tượng các tế bào đơn dạng tảo trùng mắt trôi nổi trong mặt nước và kết vào nhau. Chúng bao gồm chlorophyll a và b, cộng cả carotenoids khiến chúng có màu xanh lục, nhưng chúng không phải thực vật. Với hơn 40 loại lớn Euglenoids và hơn 1000 loài, loại rêu này là một trong những loại rêu đa dạng nhất trên thế giới, chúng là phần rất quan trọng trong chu trình sản xuất thức ăn. Rất không may, không ai nuôi thủy sinh muốn sự xuất hiện của chúng.

Nguyên nhân:

Bể mới setup – Thường thì bể mới set up khi mà chưa được lắp đủ đồ (đèn, lọc).

Mất cân bằng dinh dưỡng. Bị ảnh hưởng bởi thuốc – một số loại hóa chất có thể gây ra hiện tượng này.

Cách xử lý nhớt xanh:

Tắt đèn – tắt đèn liền 5 ngày, cây thủy sinh chỉ bị ảnh hưởng đôi chút trong khi loại tảo này sẽ chết hết.

Lọc vi sinh – hệ thống lọc vi sinh tốt sẽ loại trừ gần như tuyệt đối loại tảo này. Dùng đèn UV diệt khuẩn – sử dụng đèn UV để giết loại rêu này và làm sạch nước.

Lọc bông – chỉ cần lọc có nhiều bông là xử lý được kha khá. Rận nước: Sử dụng rận nước, chúng sẽ ăn sạch loại tảo này. Thay nước: Đây là cách đơn giản và hiệu quả nhất, thay liên tục đến khi hết thì thôi.

Chú ý:

Tránh thay nước quá nhiều trong thời gian ngắn để tránh cây và cá, tép bị sốc nước. Để điều trị hiệu quả, nên tìm hiểu chính xác nguyên nhân gây bệnh để có phương án hợp lý nhất.

9/ Hair/Thread Algae – Rêu tóc

Rêu tóc bao gồm các sợi nhỏ màu xanh có thể đạt chiều dài 30cm. Chúng thường mọc xen lẫn vào các loại rêu và đôi khi chúng được trồng có chủ định để làm thức ăn cho một số loài cá, tép.

Nguyên nhân:

Dư thừa sắt trong bể – hàm lượng >0.15 ppm, chủ yếu do không có nhiều cây lá đỏ hấp thụ sắt trong bể

Cách xử lý rêu tóc:

Xử lý bằng tay – Sử dụng bàn chải đánh răng, tay để diệt càng nhiều càng tốt. Thay nước đều đặn, 30% mỗi tuần, nếu bị nhiều thì tăng tần suất lên.

Cân bằng lại các chất dinh dưỡng trong bể: N (10-20ppm), P (0.5-2ppm), K (10-20ppm), Ca (10-30ppm), Mg (2-5ppm), Fe (.1ppm).

Staghorn (Compsopogon sp.) – Rêu sừng hươu

Rêu sừng hươu được lấy tên vì các nhánh rêu rất giống sừng hươu. Chúng mọc nhìn rất cằn cỗi, tồi tàn và thường bám vào các lá cây và các thiết bị trong bể. Rêu có thể có màu trắng, ghi hoặc xanh.

Nguyên nhân:

Mất cân bằng dinh dưỡng. Ít CO2

Cách xử lý rêu sừng hươu:

Xử lý bằng tay – Dùng bàn chải đánh răng hoặc tay để gỡ ra. Thay nước – Thay nước hàng tuần đều đặn.

Tăng cường CO2. Dùng thuốc tẩy (không khuyến cáo)

Chú ý:

Hầu hết các loài cá, tép không ăn loại rêu sừng hươu này.


Bài viết được xem nhiều