Hiển thị các bài đăng có nhãn kinh nghiệm nuôi thủy sản. Hiển thị tất cả bài đăng

Hiệu quả và giải pháp phát triển bền vững mô hình nuôi tôm-lúa


Nuôi tôm-lúa đã là nghề góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho nông dân nhiều vùng ven biển của đồng bằng sông Cửu Long. Hiện tại, hình thức nuôi chủ yếu là luân canh 1 vụ tôm- 1 vụ lúa. Diện tích sản xuất luân canh tôm-lúa trong khu vực tăng nhanh, đến nay ước đạt 160.000 ha, diện tích tiềm năng trên 200.000 ha, năng suất bình quân đạt từ 320-500 kg/ha, phần lớn tập trung tại các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau. Bạc Liêu, Tiền Giang, Sóc Trăng, Bến Tre…

Mô hình nuôi tôm- lúa mang lại hiệu quả kinh tế cao so với độc canh cây lúa trên cùng diện tích, trong thời gian qua đã phát triển khá ổn định và thể hiện tính bền vững. Năng suất nuôi được cải thiện qua từng năm do người dân đã có nhiều kinh nghiệm và áp dụng một số tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Theo đánh giá của các tỉnh và các cơ quan nghiên cứu thì đây là một mô hình mang tính bền vững và có hiệu quả kinh tế.

Nuôi tôm - lúa có nhiều lợi ích: Giảm chi phí làm đất, giảm phân bón, giảm thuốc bảo vệ thực vật, tạo sản phẩm lúa và tôm an toàn thực phẩm, đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng, mô hình nuôi bền vững, thân thiện môi trường. Mô hình tôm lúa nuôi với mật độ thưa nên tôm nhanh lớn, ít dịch bệnh. Do cấy lúa cải tạo được đất đáy, tạo môi trường tốt cho tôm phát triển.

Hiệu quả triển khai mô hình tôm lúa tại đồng bằng sông Cửu Long

Trong thời gian qua, bên cạnh việc phát triển các mô hình nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã rất quan tâm đến các mô hình nuôi tôm tại Đồng bằng sông Cửu Long theo hướng bền vững, trong đó có mô hình nuôi luân canh tôm lúa. Từ năm 2011 đến nay, thông qua các chương trình Khuyến nông Quốc gia và các chương trình khuyến nông tại địa phương đã tổ chức các lớp tập huấn hướng dẫn tiến bộ khoa học kỹ thuật nuôi tôm- lúa và xây dựng các mô hình trình diễn để người dân có điều kiện được tham quan, học tập trao đổi kinh nghiệm sản xuất.

Năm 2011-2013, Bộ đã phê duyệt dự án khuyến ngư “Phát triển nuôi tôm lúa” do Trung tâm Khuyến nông quốc gia phối hợp Trung tâm Khuyến nông Sóc Trăng thực hiện. Dự án được thực hiện với quy mô 4 tỉnh: Cà Mau, Kiên Giang, Bạc Liêu và Sóc Trăng, với diện tích 190 ha và 190 hộ dân tham gia.

Kết quả triển khai cho thấy, việc trồng lúa trên đất nuôi tôm không xảy ra xung đột trong quá trình sản xuất, mà là mô hình thông minh. Vào mùa khô, nước ngoài sông rạch mặn thì lấy vào nuôi tôm, khi mưa xuống nước ngọt thì đưa vào trồng lúa. Trong hệ thống canh tác tôm- lúa, sau khi nuôi một vụ tôm thì tiến hành trồng một vụ lúa, khi đó những chất thải hữu cơ dưới đáy ao sau khi thu hoạch tôm sẽ làm cho ruộng lúa màu mỡ, người trồng lúa chỉ bón một lượng phân nhỏ là đáp ứng nhu cầu phát triển của cây. Bên cạnh đó, để tránh ảnh hưởng đến tôm nuôi, người dân phải áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp, ít sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (giảm 70-80%). Ngược lại, nuôi tôm sau vụ lúa thì nền đáy ao đã được khoáng hóa nên các chất độc hại giảm, hạn chế tình trạng vùng nuôi tôm bị lão hóa do đất bị ngập mặn lâu, đồng thời cắt phần mầm bệnh trong ao nuôi, môi trường ổn định, khi nuôi tôm không cần sử dụng nhiều thuốc, hóa chất, hạn chế chi phí sản xuất, lợi nhuận tăng cao.

Theo đánh giá của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, hệ thống canh tác tôm lúa hạn chế sử dụng hóa chất độc hại, sử dụng tài nguyên nước hợp lý theo từng thời điểm và mùa trong năm, thích ứng với điều kiện tự nhiên, thời tiết khí tượng thủy văn, tạo ra sản phẩm sạch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phù hợp với sản xuất nông nghiệp, từ đó nâng cao giá trị hàng hóa, tăng lên từ 2-3 lần so với chỉ cấy lúa. Ngoài ra, mô hình này giải quyết được vấn đề ô nhiễm nguồn nước, lão hóa vùng nuôi tôm, giảm thiểu rủi ro dịch bệnh, tạo điều kiện giúp nghề nuôi phát triển bền vững.

Tuy nhiên, bên cạnh nhiều lợi ích thì mô hình này vẫn còn bộc lộ một số bất cập: Là mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến nên công trình chưa đảm bảo, bị rò rỉ, bị nhiễm phèn và không giữ được nước. Kỹ thuật về nuôi tôm-lúa của bà con còn hạn chế, chủ yếu nuôi theo kinh nghiệm nên năng suất bấp bênh và thiếu ổn định. Môi trường ngày càng ô nhiễm, độ mặn biến động lớn, thời tiết biến đổi gây biến động môi trường lớn. Hiện nay các vùng sản xuất tôm lúa nằm xen trong các khu nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh, hệ thống thủy lợi phục vụ mô hình tôm lúa chưa đồng bộ, vấn đề quản lý nguồn nước, dịch bệnh chưa chặt chẽ, còn thiếu sự liên kết, hợp tác trong người dân ở từng khu vực và giữa các bên có liên quan, để phát triển mô hình tôm lúa.

Ngoài ra, tôm giống chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, chất lượng, thời gian theo thời vụ không được khuyến cáo, người dân ít quan tâm đến chất lượng tôm giống. Sản xuất lúa phụ thuộc nhiều vào thời tiết và nguồn nước ngọt, chưa có giống lúa đặc thù cho từng vùng sinh thái khác nhau, nên năng suất, chất lượng lúa thấp. Nông dân thiếu vốn sản xuất trong khi giá vật tư nông nghiệp không ổn định và cao so với khả năng đầu tư của nông hộ.

Giải pháp phát triển bền vững

Trước những lợi ích và bất cập của mô hình nuôi tôm-lúa, Trung tâm Khuyến nông quốc gia đã đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển bền vững nghề này:

Tăng cường công tác quản lý chất lượng tôm giống, xét nghiệm và cho kết quả nhanh bệnh dịch trên tôm. Đầu tư nghiên cứu lai tạo ra các giống lúa có khả năng chịu mặn, chịu phèn tốt, kháng bệnh, năng suất và chất lượng tốt.

Để mô hình luân canh tôm lúa tiếp tục phát triển mạnh và bền vững, trong thời gian tới cần quy hoạch hợp lý các vùng luân canh, để có các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng phù hợp và chính sách tín dụng hỗ trợ sản xuất, khuyến khích sản xuất theo hướng liên kết, hợp tác. Nâng cấp các công trình nuôi trồng thủy sản, đặc biệt đối với hình thức nuôi luân canh tôm lúa, cần gia cố bờ bao, mương bao để đảm bảo ứng phó với hiện tượng biến đổi khí hậu, nước biển dâng trong thời gian tới.

Tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật, chỉ nên nuôi 1 vụ tôm, 1 vụ lúa/năm. Mật độ nuôi chỉ nên duy trì dưới 8 con/m2, diện tích mương nuôi tôm chiếm không quá 30% tổng diện tích.

Tăng cường tập huấn kỹ thuật, nhất là quản lý môi trường nước và phòng trị bệnh trên tôm nuôi. Tổ chức các điểm trình diễn mô hình tôm- lúa cho nông dân tham quan, học hỏi kinh nghiệm, nhằm tăng hiệu quả sản xuất. Người dân cần liên kết và hợp tác trong sản xuất, để cải tạo đất, thả tôm giống, gieo cấy lúa theo lịch thời vụ.

Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về lợi ích và hiệu quả của hình thức nuôi tôm lúa.

Lợi ích khi sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản và những điều cần lưu ý


Sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi thủy sản (men vi sinh) là hướng đi có ý nghĩa thực tiễn nhằm bảo vệ môi trường và đảm bảo hiệu quả sản xuất. Từ đó, góp phần đưa nghề nuôi thủy sản phát triển bền vững.

Hai thành phần chính của men vi sinh là vi khuẩn có lợi và các chất dinh dưỡng để nuôi vi khuẩn. Vi khuẩn có lợi được phân lập từ nhiều nguồn khác nhau. Chúng gồm các loài như:  Bacillus sp., Nitrosomonas, Nitrobacter… Chất dinh dưỡng là các loại như đường, muối canxi, muối magiê…

Về hình thức, men vi sinh có 02 dạng, dạng nước và dạng bột (hay dạng viên). Bình thường, dạng bột có mật độ vi khuẩn có lợi cao hơn so với dạng nước. Về chủng loại, men vi sinh có 02 loại, loại dùng để xử lý môi trường (loài vi khuẩn chính là  Bacillus sp. ) và loại trộn vào thức ăn (loài vi khuẩn chính là Lactobacillus).

Một số dòng vi sinh bà con có thể tham khảo như:

Vi sinh xử lý nước ao nuôi thủy sản

Tập hợp các chủng vi sinh được phân lập chuyên biệt để xử lý tảo và làm sạch ao nuôi thông qua cơ chế cạnh tranh thức ăn trong nước. Bên cạnh đó còn có thêm chất phụ gia và hàng tỉ tế bào vi sinh xử lý nước ao nuôi nhằm kích thích tăng trưởng của tôm và cá.

Vi sinh xử lý bùn đáy ao nuôi thủy sản

Là công thức pha trộn độc quyền vi sinh và hỗn hợp của 23 vitamin thiết yếu, kích thích sinh học, các enzyme để xử lý bùn đáy. Giúp bà con xử lý bùn đáy ao hiệu quả, tiết kiệm nhiều chi phí nạo vét, bên cạnh đó còn giúp làm giảm hình thành bùn đáy, loại bỏ khí độc tích tụ trong lớp bùn.

Vi sinh xử lý khí độc Ammonia và khí độc NO2 trong ao nuôi thủy sản

H2S, NO2 là những “sát thủ thầm lặng” luôn tồn tại trong ao nuôi thủy sản và sẵn sàng gây hại cho tôm, cá nuôi bất cứ thời điểm nào. Nhưng, bà con chỉ cần sử dụng EcoClean AM để đánh là có thể xử lý dễ dàng. Công thức pha trộn từ các vi khuẩn tự nhiên được phân lập chuyên biệt (8 loại vi khuẩn kỵ khí tùy nghi) để loại bỏ Ammonia và NO2 hiệu quả (không phải cơ cấu cấy ghép di truyền) của sản phẩm giúp làm giảm BOD, COD và mùi phát sinh từ hoạt động của vi khuẩn kỵ khí. Làm giảm đáng kể chi phí nạo vét và hóa chất cho quá trình xử lý.

Các lợi ích mang lại khi sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản:

1. Làm ổn định chất lượng nước và nền đáy trong ao nuôi tôm, cá.

2. Nâng cao sức khoẻ và sức đề kháng của tôm, cá.

3. Giảm thiểu ô nhiễm môi trường ao nuôi và xung quanh do nuôi thuỷ sản gây nên.

4. Nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn.

Các lợi ích đạt được như trên là do hoạt động tích cực của vi khuẩn qua một hay nhiều cơ chế tác động:

1.  Cạnh tranh mạnh mẽ chất dinh dưỡng, năng lượng và giá thể với các loài vi khuẩn có hại khác và tảo độc.

2.  Chuyển hóa các chất hữu cơ như thức ăn dư, xác tảo, cặn bã thành CO2 và nước; chuyển các khí độc như NH3, NO2 thành các chất không độc như NH4+, NO3–.

3. Hạn chế vi khuẩn có hại trong đường ruột và giúp chuyển hoá hiệu quả thức ăn.

4.  Tiết ra một số chất kháng sinh, enzyme để kìm hãm hay tiêu diệt mầm bệnh.

Để men vi sinh phát huy hiệu quả cao, người nuôi thủy sản phải tuân thủ một số nguyên tắc dùng sau đây:

– Pha loãng men vi sinh bằng nước trong ao nuôi, cho vào xô, thau, sau đó sục khí 4 – 5 giờ đến khi men có mùi chua hay pH giảm thì đem bón.

– Định kỳ dùng trong quá trình nuôi. Thông thường 7 – 10 ngày/lần đối với loại xử lý môi trường và luân phiên sử dụng 5 ngày, sau đó ngưng 5 ngày đối với loại trộn vào thức ăn. Sử dụng cùng lúc với bón phân gây màu nước hay sau khi nước đã lên màu.

– Liều lượng dùng phải theo đúng theo đề nghị của nhà sản xuất.

– Khi môi trường ao nuôi có dấu hiệu hay đang suy giảm chất lượng như hàm lượng khí độc cao (NH3, H2S, NO2…), nước nhiều cặn bã, nước phát sáng thì men vi sinh được sử dụng sớm hơn so với thường ngày với liều lượng tăng gấp 2 lần so với đề nghị.

– Không được sử dụng men vi sinh cùng với các loại hoá chất có tính diệt khuẩn như BKC, thuốc tím, Chlorine, i-ốt, kháng sinh. Đồng thời, không được sử dụng men vi sinh khi các chất trên đang hiện diện trong môi trường nước hay trong thân tôm, cá nuôi.

– Trước khi bón men vi sinh cần cải thiện môi trường ao nuôi bằng các biện pháp như thay nước, bón vôi nâng pH lên 7,5 – 8,5, bón vôi + Dolomite + Khoáng nâng cao độ kiềm.

Men vi sinh sẽ có hiệu quả sau khi sử dụng 2 – 4 ngày, thể hiện qua màu nước và các chỉ tiêu môi trường.

Kết quả thực hiện tại Trung tâm Tập huấn và Chuyển giao công nghệ Nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long: Nuôi tôm thẻ chân trắng bằng quy trình vi sinh, sau 2 đợt nuôi cho kết quả như sau:Tác dụng đối với môi trường ao:
– Ổn định pH (dao động từ 8,0 – 8,3 trong suốt quá trình nuôi),

– Màu nước: tháng thứ nhất độ trong từ 25 – 35cm, sau tháng thứ 2 trở đi thì nước đục.

– Bùn đáy ao, lượng phân tôm, thức ăn thừa và các chất hữu cơ khác giảm 50% so với ao không sử dụng vi sinh định kỳ.

– Giảm Nitrite, Nitrate, giảm mùi hôi của các khí độc, kiểm soát hiệu quả sự kết váng trên bề mặt và bùn đáy ao, tạo môi trường ổn định. Hàm lượng khí độc NH3 < 0,01mg/lít, NH4+ <0,2 mg/lít.

Hiệu quả:

– Tôm phát triển nhanh, năng suất tôm lên đến 20 tấn/ha.

– Kích cỡ tôm sau 75 ngày nuôi đạt: 65 con/kg (15,4 gram/con).

Tóm tắt quá trình sử dụng men vi sinh:

– Trước khi thả giống 2 – 3 ngày: sử dụng vi sinh với liều dùng gấp đôi so với hướng dẫn của nhà sản xuất.

– Tháng thứ nhất: định kỳ 5 ngày đánh 1 lần, với liều dùng của nhà sản xuất.

– Tháng thứ hai: định kỳ 4 ngày đánh 1 lần, với liều dùng của nhà sản xuất.

– Tháng thứ ba trở đi: định kỳ đánh 3 ngày 1 lần, với liều dùng của nhà sản xuất.


Sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản như thế nào cho đúng?

Tránh dịch bệnh, bảo vệ môi trường là ưu thế của chế phẩm sinh học (CPSH) trong việc sản xuất thuỷ sản sạch. Tuy nhiên, việc ngộ nhận CPSH là vô hại khiến nhiều bà con sử dụng nó một cách vô tội vạ, khi tôm cá chết hàng loạt lại nghĩ do ô nhiễm môi trường.

Đừng lạm dụng chế phẩm sinh học không đúng cách

Nhiều lô hàng thuỷ sản xuất khẩu bị trả về do dư lượng kháng sinh lớn chỉ là một trong các tác hại của tình trạng lạm dụng kháng sinh, bên cạnh sự gia tăng bệnh dịch do kháng thuốc, môi trường bị ảnh hưởng. Sự lên ngôi của các CPSH thời gian qua góp phần giải quyết nạn này. Tuy nhiên, do nhiễu thông tin từ các công ty bán CPSH, nhiều nông dân dùng không đúng chỉ dẫn của các nhà khoa học, dẫn đến thất bại.


CPSH còn gọi là men vi sinh - tiếng Anh là probiotics - bao gồm hai từ pro có nghĩa là thân thiện hay thiên về và biotics có nghĩa là sự sống, sinh vật. CPSH được sản xuất với mục đích kích thích sự gia tăng các loài vi khuẩn có lợi trong môi trường. CPSH là sản phẩm được tạo ra bởi con người, bằng cách kết hợp hai hoặc nhiều dòng vi khuẩn có lợi trong cùng một môi trường để tác động tới đối tượng cần cải tạo (đất, nước, đường ruột, v.v…). Gần đây, việc sử dụng các chế phẩm trong chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản – nuôi tôm thẻ chân trắng, tôm sú, cá tra, ốc hương, ếch, v.v… là một xu hướng mới thay thế cho biện pháp dùng kháng sinh hoặc loại bỏ việc dùng các chất diệt khuẩn như Cloramin, clorine, focmon, peracetic acid…
Trên thị trường hiện có hàng nghìn sản phẩm hóa chất, men vi sinh dùng trong xử lý, cải tạo môi trường nuôi thuỷ sản, có loại nằm trong danh mục cho phép, có loại đang thử nghiệm, có loại nhập lậu… do hàng trăm doanh nghiệp lớn, nhỏ đưa xuống bán cho các đại lý, hoặc tuồn thẳng vào ao nuôi.

Thị trường sản phẩm hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản không chỉ loạn hoá chất, kháng sinh mà còn loạn cả CPSH. Những chế phẩm này được doanh nghiệp, đại lý quảng bá như là thần dược trong việc cải tạo, làm sạch môi trường, lập lại cân bằng sinh thái trong ao nuôi, giúp con tôm không dính bệnh tật do diệt được vi khuẩn trong nước, diệt tảo độc, ức chế khí độc...

Người dân đang bị “ngộ độc” giữa một rừng kiến thức. Không nhiều nông dân nuôi thuỷ sản hiểu các thông tin ghi trên bao bì CPSH, men vi sinh, không biết những dòng ghi thành phần như “số lượng vi khuẩn hiếu khí Bacillus lichenniformis (109 CFU/g); Saccharomyces cereviseae (109 CFU/g); Lactobacillus acidophilus (5x1011 CFU/kg)…” có ý nghĩa gì.

Bà con cũng không phân biệt được CPSH nào tốt, cứ thấy công ty, đại lý bán thuốc nào đến tận nơi quảng cáo rầm rộ thì tin và mua. Ngoài ra, do không được hướng dẫn sử dụng một cách khoa học, họ có xu hướng cho CPSH xuống ao nuôi một cách tuỳ tiện, sai cách.

Với việc sử dụng tuỳ tiện như vậy, tỷ lệ thành công chỉ khoảng 2-3% do ao nuôi đó may mắn không có vi bào tử trùng. Với những ao thất bại, tôm cá chết, bà con tin lời người bán thuốc là do môi trường ô nhiễm, khí độc, virus mà không biết nguyên nhân thực sự.
ThS Nguyễn Văn Trọng - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II - cho biết, tác dụng của CPSH tùy thuộc đặc điểm môi trường trong từng trường hợp. Khi môi trường đầy vi sinh vật có hại, nếu đưa CPSH vào, vi khuẩn có lợi bị tiêu diệt hết, tác dụng sẽ bằng không.

Còn trong môi trường bình thường, việc dùng CPSH để tăng vi khuẩn có lợi sẽ giảm nguy cơ dịch bệnh, qua đó giảm lượng KS phải dùng. “CPSH giúp giảm nguy cơ dịch bệnh, còn nếu đã có bệnh thì vẫn phải dùng KS” - ông Trọng nói. Vì vậy, muốn loại trừ kháng sinh, cần dùng CPSH đúng cách.

Những hạn chế của CPSH trong nuôi trồng thủy sản như: CPSH chỉ có thể phòng ngừa dịch bệnh phát sinh trong quá trình nuôi trồng thủy sản chứ không thể điều trị khi bệnh xảy ra; Khi sử dụng CPSH tuyệt đối không thể sử dụng các hóa chất diệt khuẩn khác, vì hóa chất sẽ tiêu diệt các vi sinh làm mất tác dụng; Hoạt động hiệu quả trong môi trường nước tĩnh và sau khi đã diệt khuẩn trong ao nuôi; Trong các ao nuôi có nhiều biến động mạnh CPSH thường mang lại tác dụng thấp và không hiệu quả như những ao có khả năng quản lý môi trường nước tốt.

Do vậy, khi sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản, bà con cần lưu ý:


- Sử dụng định kỳ trong quá trình nuôi. Thông thường đối với nhóm chế phẩm xử lý môi trường thì 7 - 10 ngày sử dụng 1 lần và đối với nhóm hỗ trợ tiêu hóa thì có thể luân phiên sử dụng 3 - 5 ngày, sau đó ngưng 5 - 7 ngày. Cách dùng và liều lượng phải tuân thủ hướng dẫn của nhà sản xuất.

- Thời gian xử lý vi sinh tốt nhất là lúc trời nắng và khi môi trường trong ao đã đủ lượng oxy hòa tan để các dòng vi khuẩn nhanh chóng được khởi động và nhân rộng sinh khối.

- Bà con tuyệt đối không được sử dụng chế phẩm sinh học cùng với các loại hoá chất có tính diệt khuẩn như BKC, thuốc tím, Chlorine, kháng sinh ... Khi đã sử dụng các hóa chất nêu trên thì sau 3 - 5 ngày mới được dùng chế phẩm.

- Chỉ sử dụng các loại men vi sinh của các công ty có uy tín chất lượng và có tên trong danh mục được phép lưu hành tại Việt Nam theo quy định của Bộ Nông nghiệp-PTNT.


Bài viết được xem nhiều