Trải lòng nuôi tôm mùa mưa lũ


Những cơn mưa liên tục kèm theo nguy cơ lũ lụt là nguyên nhân gây phát sinh dịch bệnh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tôm nuôi. Kinh nghiệm quản lý môi trường ao nuôi trong mùa mưa, lũ là vô cùng quan trọng để góp phần đưa tôm nuôi vượt qua dịch bệnh, phát triển tốt.

Quản lý môi trường

Ổn định pH: Thông thường, pH trong ao tôm ở mức 7,5 - 8,5. Mưa lớn kéo dài, do tính chất axit của nước mưa cộng thêm quá trình rửa trôi phèn từ bờ xuống ao tôm làm cho pH môi trường ao tôm giảm. Do đó, để hạn chế tình trạng này, người nuôi cần theo dõi thông tin thời tiết, bón vôi trước và trong những trận mưa kéo dài. Rải vôi dọc theo bờ ao khi trời mưa với liều lượng 10 kg/100 m2. Nếu pH thấp, sử dụng vôi nông nghiệp CaCO3 liều lượng 10 - 20 kg/1.000 m3 nước ao tùy giá trị pH đo được (chạy quạt để trộn đều nước), xử lý từ từ cho đến khi pH nằm trong ngưỡng cho phép (từ 7,5 trở lên).

Kiểm soát độ kiềm:

Tôm sú có độ kiềm thích hợp là 85 - 130 mg/l; tôm thẻ chân trắng nằm trong khoảng 100 - 150 mg/l. Sau mưa, độ kiềm ao nuôi có xu hướng giảm, vì vậy, cần dùng vôi Dolomite ngâm vào nước ngọt trong 24 giờ, sau đó tạt đều xuống ao vào 8 - 10 giờ đêm với mức 1,655 g vôi Dolomite sử dụng cho cho 1 m3 nước sẽ tăng độ kiềm lên 1 mg/l. Ví dụ: muốn tăng độ kiềm của ao tôm 3.000 m3 từ 80 lên 90 mg/l thì cần 3.000 × 1,655 × (90 - 80)/1.000 = 46,65 kg. Lưu ý, mỗi lần tăng độ kiềm chỉ nên tăng khoảng 10 mg/l, bởi nếu độ kiềm tăng quá nhanh sẽ làm tôm bị sốc, sức đề kháng giảm.

Ngăn chặn nước ao bị đục:

Nguyên nhân làm nước ao tôm bị đục là do các chất hữu cơ, hạt sét bị nước mưa cuốn trôi từ trên bờ xuống ao tôm. Nước đục sẽ làm hạn chế khả năng quang hợp của tảo làm tôm thiếu ôxy, tảo thường tàn đột ngột, tôm bị đen mang, vàng mang do bị những vật chất lơ lửng trong nước bám vào mang tôm. Để khắc phục tình trạng này, có thể sử dụng muối vô cơ như nhôm sunfat (Al2(SO4)3) hoặc  thạch cao để làm trong nước. Sau khi nước giảm đục, cần tiến hành gây màu tảo để tạo môi trường ổn định cho tôm nuôi.

Ngoài ra, khi xuất hiện những cơn mưa lớn cần tăng cường chạy quạt nước để tránh sự phân tầng nhiệt độ, cung cấp thêm ôxy và tăng nhiệt độ nước. Sau những cơn mưa, phải đảm bảo mực nước ao nuôi tôm ổn định ở mức 1,2 - 1,5 m. Khi mực nước ao tôm cao do nước mưa, tiến hành xả bớt lượng nước tầng mặt để duy trì mực nước trong ao, đồng thời tránh làm giảm độ mặn đột ngột, tràn bờ, vỡ cống bọng. Khi mưa chấm dứt vài ngày, thời tiết nắng, tạo điều kiện vi khuẩn có hại phát triển, cần diệt khuẩn để giảm bớt mầm bệnh. Cấy vi sinh lại sau 2 ngày kết hợp với quạt nước, máy bơm, tăng cường hàm lượng ôxy hòa tan, kích thích vi khuẩn có lợi trong ao phát triển, ức chế vi khuẩn có hại, tăng cường phân hủy chất hữu cơ, hạn chế hiện tượng tảo phát triển quá mức.

Sử dụng chế phẩm sinh học

Bổ sung chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản phù hợp là yếu tố không thể thiếu khi nuôi tôm mùa mưa lũ, giúp tôm tăng cường khả năng chống chịu, tăng cường sức đề kháng, phòng các dịch bệnh có thể lây lan,...

Quản lý cho ăn

Khi thời tiết âm u kéo dài, có dấu hiệu sắp mưa cần giảm lượng thức ăn hoặc có thể ngưng cho ăn. Thông thường ở 18 độ C, tôm vẫn có thể bắt mồi nếu nhiệt độ giảm xuống từ từ hoặc đây là nhiệt độ hằng ngày trong mùa lạnh và lượng thức ăn chỉ 10 - 20% so với nhu cầu bình thường. Mỗi khi nhiệt độ giảm đi khoảng 20C thì lượng thức ăn giảm khoảng 30%. Nên kiểm tra nhiệt độ nước trong ao trước khi cho tôm ăn. Tôm ngừng ăn khi nhiệt độ giảm đột ngột từ mức thích hợp (28 - 30 độ C) xuống 22 độ C. Lưu ý, đảm bảo lượng thức ăn không được dư thừa, vì chính nó là nguyên nhân làm ô nhiễm môi trường nước, dẫn đến sự nở hoa của tảo, tăng khí độc…

Bên cạnh đó, khi mưa kéo dài, tôm nuôi có thể bị mềm vỏ, khó lột xác do độ kiềm giảm thấp. Để khắc phục tình trạng này ngoài việc dùng Dolomite thì cần cho tôm ăn thức ăn chất lượng cao, trộn các loại Vitamin C, Vitamin tổng hợp và khoáng chất vào thức ăn hàng ngày để tăng sức đề kháng cho tôm.


“Vua tôm” Minh Phú báo lãi quý 2 cao gấp 34 lần cùng kỳ năm trước


CTCP Tập đoàn Thủy sản Minh Phú (MPC) đã công bố báo cáo tài chính hợp nhất quý 2/2017 với kết quả kinh doanh tăng trưởng mạnh so với cùng kỳ.

Theo đó, doanh thu thuần đạt 3.660 tỷ đồng – tăng 37,3% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ trọng giá vốn hàng bán trong doanh thu thuần giảm mạnh từ mức gần 93% xuống còn 89% nên lãi gộp đạt 398,2 tỷ đồng cao gấp hơn 2 lần cùng kỳ năm trước.

Trong kỳ doanh thu từ hoạt động tài chính giảm nhẹ, nhờ lãi vay giảm mạnh 26,4% nên chi phí tài chính thấp hơn cùng kỳ, chi phí QLDN cũng giảm mạnh 41% xuống còn hơn 40 tỷ đồng, tuy nhiên chi phí bán hàng tăng cao 29% lên mức gần 182 tỷ đồng nên kết quả MPC lãi trước thuế 134,4 tỷ đồng, LNST công ty mẹ đạt 101,4 tỷ đồng tăng mạnh so với con số hơn 3 tỷ đồng của quý 2/2016. Thu nhập trên mỗi cổ phần (EPS) tương ứng 1.480 đồng khả quan hơn con số 46 đồng cùng kỳ năm trước - Đây cũng là con số lợi nhuận cao nhất mà MPC đạt được trong vòng 8 quý kinh doanh vừa qua.

Lũy kế 6 tháng đầu năm 2017, MPC đạt 6.342 tỷ đồng doanh thu thuần tăng 34,5% so với cùng kỳ, LNST công ty mẹ đạt 144 tỷ đồng cao gấp hơn 7 lần cùng kỳ tương đương EPS đạt 2.104 đồng. Năm 2017, Minh Phú đặt kế hoạch lợi nhuận sau thuế hợp nhất 841,28 tỷ đồng. Với kết quả thực hiện trong quý 2 vừa qua, công ty cũng mới chỉ hoàn thành khoảng 17% chỉ tiêu đề ra.

Tại thời điểm cuối quý 2, tổng tài sản Minh Phú đạt 8.357,8 tỷ đồng, trong đó giá trị hàng tồn kho chiếm 4.391 tỷ đồng. Nợ phải trả của công ty cuối quý 2 lên tới 5.919 tỷ đồng, chiếm 71% tổng nguồn vốn. Trong đó, vay nợ ngắn hạn 3.326 tỷ đồng tăng gấp gần 2 lần so với hồi đầu năm; vay nợ dài hạn 2.039,4 tỷ đồng giảm 41,3% so với số dư đầu kỳ.
Mới đây, MPC đã thông qua việc điều chỉnh giảm vốn điều lệ của công ty con là Công ty TNHH Thực phẩm Minh Phú từ vốn đăng ký 40,8 tỷ đồng xuống bằng với số vốn thực góp là 2 tỷ đồng. Đồng thời thông qua việc điều chỉnh giảm cơ cấu góp vốn vào Doanh nghiệp xã hội chuỗi tôm rừng Minh Phú.
Bên cạnh đó HĐQT cũng đã thông qua việc việc đầu tư thêm vốn cho 2 vùng nuôi tôm để bước đầu thực hiện chiến lược nuôi tôm của tập đoàn gồm đầu tư thêm 70 tỷ để tăng vốn Điều lệ của Công ty TNHH Thủy hải sản Minh Phú Kiên Giang lên 220 tỷ. Đầu tư thêm 30 tỷ để tăng vốn Điều lệ của Công ty TNHH Nuôi trồng Thủy sản Minh Phú Lộc An lên 180 tỷ.

(Theo CafeF)

Muốn phát triển bền vững ngành cá tra, cần nguồn giống chất lượng cao


Theo ý kiến nhiều chuyên gia, chất lượng con giống suy giảm và không đảm bảo là yếu tố ảnh hưởng nghiêm trọng, trực tiếp đến sản lượng cá tra hiện nay.

Cá tra là đối tượng nuôi nước ngọt phổ biến ở vùng ĐBSCL, đồng thời là sản phẩm chủ lực của ngành thủy sản Việt Nam sau con tôm. Tuy nhiên, thời gian qua do chất lượng cá giống ngày càng suy giảm ảnh hưởng nghiêm trọng, trực tiếp đến sản lượng, năng suất và hiệu quả kinh tế của các cơ sở nuôi.

Để cung cấp con giống chất lượng cao cho các hộ nuôi tại khu vực ĐBSCL, định hướng xây dựng An Giang trở thành trung tâm giống cá tra công nghệ cao cung cấp con giống chất lượng cao theo hướng liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp.

Hiện nay, toàn vùng ĐBSCL có hơn 100 cơ sở cho sinh sản nhân tạo cá tra  và gần 1.900 hộ ươm dưỡng cá giống với diện tích khoảng 1.500ha; sản lượng cá bột sản xuất ước đạt hơn 16 tỷ con/năm, tập trung ở các địa phương như: Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ… trong đó An Giang là tỉnh sản xuất và cung ứng cá tra giống chủ yếu của khu vực với 1,5 đến 4 tỷ con/năm.

Tuy nhiên, thời gian qua chất lượng con giống suy giảm và không đảm bảo chất lượng, tỷ lệ hao hụt trong các ao nuôi, đặc biệt có những ao nuôi cá tra có tỷ lệ hao hụt 40%- 50%. Hầu hết các vùng nuôi đều xuất hiện bệnh phổ biến trên cá tra như: xuất huyết trắng mang, trắng gan, nhất là căn bệnh gan thận mủ… nguyên nhân là do đàn cá bố mẹ bị thoái hóa, lai cận huyết đã xuống cấp đến mức đáng báo động; sự cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các cơ sở sản xuất cá bột, cho cá đẻ ép, đẻ non và đẻ nhiều lần trong năm.

Điều này làm cho chất lượng cá giống ngày càng suy giảm ảnh hưởng nghiêm trọng, trực tiếp đến sản lượng, năng suất và hiệu quả kinh tế của các cơ sở nuôi.

Ông Nguyễn Thanh Tùng, Viện trưởng Viện Kinh tế và quy hoạch thuỷ sản, Bộ NN& PTNT cho biết: "Hiện nay, con giống chưa đảm bảo, dịch bệnh nhiều, sản xuất manh mún nên nguồn cung cho thị trường không ổn định. Vì vậy, nhu cầu cấp thiết nhất thời điểm này là chúng ta phải liên kết sản xuất giống 3 cấp chất lượng cao cung cấp cho ĐBSCL nhằm phát triển bền vững cho ngành cá tra hiện tại và tương lai".

Để có nguồn cá giống chất lượng cao cung cấp cả vùng ĐBSCL, Thủ tướng Chính phủ đã giao cho tỉnh An Giang xây dựng đề án “Liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp chất lượng cao cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long tại An Giang"; định hướng xây dựng An Giang trở thành trung tâm giống cá tra công nghệ cao cung cấp con giống chất lượng cao theo hướng liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp. Từ đó để từng bước đáp ứng đủ về nhu cầu con giống cá tra có chất lượng tốt cho vùng ĐBSCL, góp phần tái tạo ngành cá tra theo hướng bền vững và hiệu quả hướng đến quản lý chặt chẽ và bền vững thông qua các mối liên kết.

Theo ông Lâm Quang Thi, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, An Giang là địa phương có nguồn lao động dồi dào, điều kiện kinh tế - xã hội phù hợp; đồng thời có điều kiện địa hình thuận lợi để phát triển sản xuất cá tra. Đây cũng là một trong những cái nôi của giống cá tra, có nhà máy sản xuất cá tra lớn và cung cấp nguồn cá tra xuất khẩu lớn trong cả nước. Vì vậy chọn An Giang là địa phương triển khai và phát triển cá tra là hợp lý.

"Con cá tra hiện đang bấp bênh, điều đó đặt ra cho chúng ta một yêu cầu, phải hoàn thiện từ khâu sản xuất giống tới đầu ra của thị trường. Từ đó, đưa nó trở thành sản phẩm quốc gia, sản phẩm mang lợi thế so sánh của Việt Nam. Đặc biệt là khâu sản xuất cá giống nếu làm không tốt thì con cá tra vẫn tiếp tục bấp bênh".

Liên quan đến vấn đề này, tại hội thảo “Liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp chất lượng cao cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long tại An Giang" mới đây, các biểu đã thống nhất, việc thực hiện đề án “liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp chất lượng cao cho vùng ĐBSCL là cần thiết; tạo được nguồn giống tốt là rất quan trọng trong chuỗi sản xuất cá tra. Con giống là quan trọng trong phát triển cá tra, có con giống sạch bệnh là căn cơ mang lại hiệu quả cao, nâng chất lượng và thương hiệu.

Đơn vị cấp 1 sẽ là các viện nghiên cứu, các trường đại học tham gia nguồn lực và nghiên cứu; Cấp 2 là các trung tâm và doanh nghiệp sản xuất giống; Cấp 3 là các cơ sở ươm giống. Trong đó, doanh nghiệp là nòng cốt đóng vai trò quan trọng trong đề án; doanh nghiệp kết hợp với các hộ dân ươm giống đồng thời phối hợp với các cơ quan nghiên cứu để tạo ra giống tốt đảm bảo chất lượng. Đây thực sự là mong muốn chung của người làm giống, người nuôi cá thương phẩm và các cơ quan ban ngành nhà nước...

Ông Đặng Quốc Tuấn, Phó Chủ tịch HĐQT, Kiêm Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Việt Úc cho biết: "Những người tham ra phải thực sự tìm được giải pháp năng động, hiệu quả. Doanh nghiệp sẽ đóng vai trò vị thế là người dẫn đầu, có tiềm lực tài chính, tiềm năng quản trị để tìm công nghệ và đưa ra các giải pháp để phát triển; người dân là những người trực tiếp sản xuất, làm ra sản phẩm thì cần phải có tư duy cởi mở để đón nhận những tiến bộ về khoa học công nghệ. Trong chuỗi liên kết này thì mỗi người tham gia cần phải có gắng đóng góp nhiều hơn nữa cái vai trò của mình.

Còn về mặt chính sách, nhà nước nên đi theo hướng dài hạn như: sản xuất giống thì nên đề ra những chuẩn mực, bình đẳng và cả ngành phải vận hành theo chuẩn mực này và mục đích cuối cùng là hướng tới chất lượng thì nó sẽ tạo ra sự phát triển bền vững hơn cho ngành cá tra".

Theo ông Vũ Văn Tám, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT, mục tiêu đến năm 2020, cung cấp khoảng 50% nhu cầu giống cá tra và đến năm 2025 cung cấp 70% nhu cầu giống cá tra tương đương gần 2,5 – 2,8 tỷ giống cá tra cung cấp cho các địa phương tại khu vực ĐBSCL.

Điều này cho thấy tạo được nguồn giống tốt là rất quan trọng trong chuỗi sản xuất cá tra, do đó việc phải hoàn thiện "liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp" để tạo ra giống có chất lượng có tính di truyền chọn lọc có khả năng tăng trưởng nhanh, kháng bệnh, chất lượng thịt tốt... phục vụ cho nuôi thương phẩm là điều cấp thiết hiện nay, để phát huy tiềm năng, thế mạnh và phát triển bền vững thị trường cá tra.

"Bộ nông nghiệp sẽ hỗ trợ An Giang để hoàn thành đề án này, trong đó quy hoạch thành 3 vùng sản xuất giống tập trung, có sự đầu tư của ngân sách nhà nước đối với các cơ sở hạ tầng thiết yếu và có sự hỗ trợ về khoa học công nghệ và các chính sách khác, làm sao để tạo ra sản phẩm cá tra chất lượng cao khắc phục tình trạng hiện nay.

Tới đây Bộ cũng xây dựng hoàn thiện toàn bộ các quy chuẩn kỹ thuật, đặc biệt là quy định rất là cụ thể về điều kiện sản xuất, từ giống đến toàn bộ chuỗi sản phẩm cá tra. từ đó không những xây dựng thương hiệu, truy xuất được nguồn gốc, đáp ứng được tất các yêu cầu của thị trường, kể cả là thị trường khó tính nhất" - Thứ trưởng Vũ Văn Tám nhấn mạnh.

Cá tra là đối tượng nuôi nước ngọt phổ biến ở vùng ĐBSCL, đồng thời là sản phẩm chủ lực của ngành thủy sản Việt Nam. Việc liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp chất lượng cao là một khâu rất quan trọng trong chuỗi sản xuất cá tra góp phần để con cá tra phát triển bền vững./.

(Theo VOV)

Vi phạm về phòng, chống dịch bệnh thủy sản bị phạt từ 700.000-6.000.000 đồng


Đó là quy định tại Nghị định số 90/2017/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 31/7/2017 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thú y.

Theo đó, Nghị định quy định mức phạt về vi phạm về phòng, chống dịch bệnh động vật thủy sản như sau: Phạt tiền từ 700.000  đồng đến 1.500.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: xử lý môi trường không theo đúng hướng dẫn của cơ quan quản lý chuyên ngành thú y khi có dịch bệnh xảy ra; không thực hiện thu hoạch hoặc chữa bệnh đối với động vật thủy sản mắc bệnh hoặc khử trùng sau thu hoạch, tiêu hủy ổ dịch theo hướng dẫn của cơ quan quản lý chuyên ngành thú y; thả mới hoặc thả bổ sung động vật thủy sản mẫn cảm với bệnh dịch đã công bố trong thời gian công bố dịch. Phạt tiền từ 1.500.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng động vật thủy sản để làm giống mang mầm bệnh hoặc mắc bệnh thuộc Danh mục bệnh động vật phải công bố dịch. Phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối với hành vi không xử lý môi trường khi có dịch bệnh xảy ra. Về biện pháp khắc phục hậu quả, Nghị định yêu cầu buộc tiêu hủy động vật thủy sản đối với hành vi sử dụng động vật thủy sản để làm giống mang mầm bệnh hoặc mắc bệnh thuộc Danh mục bệnh động vật phải công bố dịch.

Đối với những vi phạm về kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật thủy sản vận chuyển ra khỏi địa bàn cấp tỉnh, Nghị định quy định phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi vận chuyển động vật thủy sản giống vượt quá 10% về số lượng, không đúng chủng loại, kích cỡ ghi trong Giấy chứng nhận kiểm dịch. Phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: không thực hiện kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật thủy sản thuộc diện phải kiểm dịch; đưa động vật thủy sản thu hoạch từ cơ sở nuôi có bệnh đang công bố dịch ra khỏi vùng có dịch mà chưa được sơ chế, chế biến. Về biện pháp khắc phục hậu quả, buộc kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật thủy sản đối với hành vi vi phạm vận chuyển động vật thủy sản giống vượt quá 10% về số lượng, không đúng chủng loại, kích cỡ ghi trong Giấy chứng nhận kiểm dịch và không thực hiện kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật thủy sản thuộc diện phải kiểm dịch; buộc phải sơ chế, chế biến động vật, sản phẩm động vật thủy sản đối với hành vi đưa động vật thủy sản thu hoạch từ cơ sở nuôi có bệnh đang công bố dịch ra khỏi vùng có dịch mà chưa được sơ chế, chế biến.

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/9/2017.

Hà Kiều

Khánh Hòa: Đưa nghề nuôi tôm hùm phát triển bền vững


Khánh Hòa là một trong những tỉnh có nghề nuôi tôm hùm lớn nhất cả nước với hơn 23.300 lồng tôm hùm được thả nuôi hằng năm, chiếm đến hơn 40% tổng số lồng nuôi tôm hùm của cả nước. Nghề nuôi tôm hùm ở Khánh Hòa mang lại giá trị kinh tế cao nhưng lại chưa có thương hiệu, lại thiếu sự liên kết giữa người nuôi và doanh nghiệp chế biến - xuất khẩu theo chuỗi giá trị. Hàng năm, giá tôm hùm thường biến động theo mùa, việc tiêu thụ chủ yếu dưới dạng tươi sống ở trong nước và xuất khẩu sang nước bạn theo đường tiểu ngạch.

Vấn đề con giống đang được đặt ra cấp thiết khi thực hiện tái cơ cấu nghề nuôi tôm hùm ở Khánh Hòa. Người nuôi hiện gặp khó khăn về nguồn cung cấp con giống chiếm 60 đến 70%. Vào thời điểm được mùa, giá tôm hùm giống dao động từ 150.000 - 200.000 đồng/con.

Để bù đắp lượng tôm hùm giống còn thiếu, hàng năm Khánh Hòa phải nhập tôm hùm giống từ các tỉnh khác và một số nước trong khu vực Đông Nam Á theo đường tiểu ngạch. Hiện, nguồn tôm hùm giống khai thác tự nhiên cũng không ổn định do phụ thuộc vào mùa vụ, diễn biến thời tiết, thay đổi dòng chảy và môi trường biển. Bên cạnh đó, sau khi thu hoạch, tôm hùm cũng chỉ sống được khoảng bảy đến mười ngày nếu được chăm sóc tốt, do vậy các hộ nuôi mong muốn có sự kết hợp chặt chẽ từ khâu thu hoạch đến vận chuyển và tiêu thụ. Ngoài ra, người nuôi tôm hùm chưa có hiệp hội để bảo vệ quyền lợi cho mình, nhất là về giá cả và chia sẻ kinh nghiệm.

Nhiều hộ nuôi cho rằng, vấn đề cấp thiết nhất hiện nay là xây dựng mối liên kết giữa người nuôi tôm hùm với các đơn vị cung cấp yếu tố đầu vào như con giống, thức ăn… và doanh nghiệp thu mua, sơ chế, chế biến, kinh doanh tôm hùm và sản phẩm có nguồn gốc từ tôm hùm. Ngoài ra, cần đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ cao để sản xuất nhân tạo tôm hùm giống, đồng thời ban hành các tiêu chí về tôm hùm giống để kiểm soát số lượng, chất lượng, đầu tư xây dựng điểm ương tôm hùm giống tập trung trên bể nhằm kiểm soát dịch bệnh và nâng cao chất lượng.

Thực hiện tái cơ cấu ngành thủy sản, trong đó có nghề nuôi tôm hùm, ngành thủy sản Khánh Hòa cần sớm tập trung hoàn thiện quy hoạch chi tiết mặt nước để nuôi tôm hùm ở các vịnh, đầm; xây dựng rạn nhân tạo ở vịnh Nha Trang nhằm bảo vệ nguồn tôm hùm giống trong tự nhiên. Cần tổ chức nuôi tôm hùm theo quy trình VietGap, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm kết hợp quảng bá để đăng ký thương hiệu. Thu hút doanh nghiệp tham gia xây dựng hệ thống phân phối tôm hùm tươi sống bao gồm các điểm thu mua, lưu giữ trước khi giao cho các cơ sở phân phối để tạo sản phẩm tôm sạch, khỏe, đảm bảo chất lượng.

Văn Thọ

Hiệu quả và giải pháp phát triển bền vững mô hình nuôi tôm-lúa


Nuôi tôm-lúa đã là nghề góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho nông dân nhiều vùng ven biển của đồng bằng sông Cửu Long. Hiện tại, hình thức nuôi chủ yếu là luân canh 1 vụ tôm- 1 vụ lúa. Diện tích sản xuất luân canh tôm-lúa trong khu vực tăng nhanh, đến nay ước đạt 160.000 ha, diện tích tiềm năng trên 200.000 ha, năng suất bình quân đạt từ 320-500 kg/ha, phần lớn tập trung tại các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau. Bạc Liêu, Tiền Giang, Sóc Trăng, Bến Tre…

Mô hình nuôi tôm- lúa mang lại hiệu quả kinh tế cao so với độc canh cây lúa trên cùng diện tích, trong thời gian qua đã phát triển khá ổn định và thể hiện tính bền vững. Năng suất nuôi được cải thiện qua từng năm do người dân đã có nhiều kinh nghiệm và áp dụng một số tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Theo đánh giá của các tỉnh và các cơ quan nghiên cứu thì đây là một mô hình mang tính bền vững và có hiệu quả kinh tế.

Nuôi tôm - lúa có nhiều lợi ích: Giảm chi phí làm đất, giảm phân bón, giảm thuốc bảo vệ thực vật, tạo sản phẩm lúa và tôm an toàn thực phẩm, đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng, mô hình nuôi bền vững, thân thiện môi trường. Mô hình tôm lúa nuôi với mật độ thưa nên tôm nhanh lớn, ít dịch bệnh. Do cấy lúa cải tạo được đất đáy, tạo môi trường tốt cho tôm phát triển.

Hiệu quả triển khai mô hình tôm lúa tại đồng bằng sông Cửu Long

Trong thời gian qua, bên cạnh việc phát triển các mô hình nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã rất quan tâm đến các mô hình nuôi tôm tại Đồng bằng sông Cửu Long theo hướng bền vững, trong đó có mô hình nuôi luân canh tôm lúa. Từ năm 2011 đến nay, thông qua các chương trình Khuyến nông Quốc gia và các chương trình khuyến nông tại địa phương đã tổ chức các lớp tập huấn hướng dẫn tiến bộ khoa học kỹ thuật nuôi tôm- lúa và xây dựng các mô hình trình diễn để người dân có điều kiện được tham quan, học tập trao đổi kinh nghiệm sản xuất.

Năm 2011-2013, Bộ đã phê duyệt dự án khuyến ngư “Phát triển nuôi tôm lúa” do Trung tâm Khuyến nông quốc gia phối hợp Trung tâm Khuyến nông Sóc Trăng thực hiện. Dự án được thực hiện với quy mô 4 tỉnh: Cà Mau, Kiên Giang, Bạc Liêu và Sóc Trăng, với diện tích 190 ha và 190 hộ dân tham gia.

Kết quả triển khai cho thấy, việc trồng lúa trên đất nuôi tôm không xảy ra xung đột trong quá trình sản xuất, mà là mô hình thông minh. Vào mùa khô, nước ngoài sông rạch mặn thì lấy vào nuôi tôm, khi mưa xuống nước ngọt thì đưa vào trồng lúa. Trong hệ thống canh tác tôm- lúa, sau khi nuôi một vụ tôm thì tiến hành trồng một vụ lúa, khi đó những chất thải hữu cơ dưới đáy ao sau khi thu hoạch tôm sẽ làm cho ruộng lúa màu mỡ, người trồng lúa chỉ bón một lượng phân nhỏ là đáp ứng nhu cầu phát triển của cây. Bên cạnh đó, để tránh ảnh hưởng đến tôm nuôi, người dân phải áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp, ít sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (giảm 70-80%). Ngược lại, nuôi tôm sau vụ lúa thì nền đáy ao đã được khoáng hóa nên các chất độc hại giảm, hạn chế tình trạng vùng nuôi tôm bị lão hóa do đất bị ngập mặn lâu, đồng thời cắt phần mầm bệnh trong ao nuôi, môi trường ổn định, khi nuôi tôm không cần sử dụng nhiều thuốc, hóa chất, hạn chế chi phí sản xuất, lợi nhuận tăng cao.

Theo đánh giá của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, hệ thống canh tác tôm lúa hạn chế sử dụng hóa chất độc hại, sử dụng tài nguyên nước hợp lý theo từng thời điểm và mùa trong năm, thích ứng với điều kiện tự nhiên, thời tiết khí tượng thủy văn, tạo ra sản phẩm sạch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phù hợp với sản xuất nông nghiệp, từ đó nâng cao giá trị hàng hóa, tăng lên từ 2-3 lần so với chỉ cấy lúa. Ngoài ra, mô hình này giải quyết được vấn đề ô nhiễm nguồn nước, lão hóa vùng nuôi tôm, giảm thiểu rủi ro dịch bệnh, tạo điều kiện giúp nghề nuôi phát triển bền vững.

Tuy nhiên, bên cạnh nhiều lợi ích thì mô hình này vẫn còn bộc lộ một số bất cập: Là mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến nên công trình chưa đảm bảo, bị rò rỉ, bị nhiễm phèn và không giữ được nước. Kỹ thuật về nuôi tôm-lúa của bà con còn hạn chế, chủ yếu nuôi theo kinh nghiệm nên năng suất bấp bênh và thiếu ổn định. Môi trường ngày càng ô nhiễm, độ mặn biến động lớn, thời tiết biến đổi gây biến động môi trường lớn. Hiện nay các vùng sản xuất tôm lúa nằm xen trong các khu nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh, hệ thống thủy lợi phục vụ mô hình tôm lúa chưa đồng bộ, vấn đề quản lý nguồn nước, dịch bệnh chưa chặt chẽ, còn thiếu sự liên kết, hợp tác trong người dân ở từng khu vực và giữa các bên có liên quan, để phát triển mô hình tôm lúa.

Ngoài ra, tôm giống chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, chất lượng, thời gian theo thời vụ không được khuyến cáo, người dân ít quan tâm đến chất lượng tôm giống. Sản xuất lúa phụ thuộc nhiều vào thời tiết và nguồn nước ngọt, chưa có giống lúa đặc thù cho từng vùng sinh thái khác nhau, nên năng suất, chất lượng lúa thấp. Nông dân thiếu vốn sản xuất trong khi giá vật tư nông nghiệp không ổn định và cao so với khả năng đầu tư của nông hộ.

Giải pháp phát triển bền vững

Trước những lợi ích và bất cập của mô hình nuôi tôm-lúa, Trung tâm Khuyến nông quốc gia đã đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển bền vững nghề này:

Tăng cường công tác quản lý chất lượng tôm giống, xét nghiệm và cho kết quả nhanh bệnh dịch trên tôm. Đầu tư nghiên cứu lai tạo ra các giống lúa có khả năng chịu mặn, chịu phèn tốt, kháng bệnh, năng suất và chất lượng tốt.

Để mô hình luân canh tôm lúa tiếp tục phát triển mạnh và bền vững, trong thời gian tới cần quy hoạch hợp lý các vùng luân canh, để có các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng phù hợp và chính sách tín dụng hỗ trợ sản xuất, khuyến khích sản xuất theo hướng liên kết, hợp tác. Nâng cấp các công trình nuôi trồng thủy sản, đặc biệt đối với hình thức nuôi luân canh tôm lúa, cần gia cố bờ bao, mương bao để đảm bảo ứng phó với hiện tượng biến đổi khí hậu, nước biển dâng trong thời gian tới.

Tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật, chỉ nên nuôi 1 vụ tôm, 1 vụ lúa/năm. Mật độ nuôi chỉ nên duy trì dưới 8 con/m2, diện tích mương nuôi tôm chiếm không quá 30% tổng diện tích.

Tăng cường tập huấn kỹ thuật, nhất là quản lý môi trường nước và phòng trị bệnh trên tôm nuôi. Tổ chức các điểm trình diễn mô hình tôm- lúa cho nông dân tham quan, học hỏi kinh nghiệm, nhằm tăng hiệu quả sản xuất. Người dân cần liên kết và hợp tác trong sản xuất, để cải tạo đất, thả tôm giống, gieo cấy lúa theo lịch thời vụ.

Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về lợi ích và hiệu quả của hình thức nuôi tôm lúa.

Tầm quan trọng của việc ứng dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản


Trước yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng đối với các mặt hàng thực phẩm thủy sản là phải an toàn, chất lượng, đòi hỏi người nuôi thủy sản phải tăng cường các biện pháp phòng bệnh nhằm hạn chế dư lượng các loại hóa chất và kháng sinh trong sản phẩm thủy sản để đáp ứng nhu cầu thị trường, nhất là thị trường quốc tế. Vì vậy, việc ứng dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản (CPSH) được xem là chìa khóa góp phần cho sự thành công của nghề nuôi thủy sản thời hội nhập.

CPSH là sản phẩm có chứa các nhóm vi sinh vật (là những loài vi khuẩn sống có lợi) như nhóm: Bacillus sp., Lactobacillus sp., Nitrosomonas sp., Nitrobacter sp….

Ngoài ra, trong thành phần của một số CPSH có chứa các enzyme (men vi sinh) như Protease, Lipase, Amylase… có tác dụng hỗ trợ tiêu hóa và giúp hấp thu tốt thức ăn.

Khi đưa CPSH vào môi trường nước ao, các vi sinh vật (VSV) có lợi sẽ sinh sôi và phát triển rất nhanh trong môi trường nước. Các VSV có lợi này được xem là “người lao động” rất cần mẫn trong ao nuôi, sự hoạt động của chúng có tác dụng:

– Làm sạch nước và đáy ao nuôi nhờ chúng phân hủy các chất hữu cơ trong nước, hấp thu chất dinh dưỡng hòa tan trong nước nên hạn chế tảo phát triển và vi sinh xử lý bùn đáy ao thủy sản giúp giảm lớp bùn đáy ao. Nhờ vậy, giúp ổn định pH nước, ổn định màu nước, giảm khí độc NH3, H2S… làm cho tôm cá khỏe mạnh, ít bệnh, ăn nhiều, mau lớn.

– VSV có lợi phát triển nhiều sẽ kìm hãm, ức chế, lấn át sự phát triển của VSV có hại do chúng cạnh tranh thức ăn và tranh giành vị trí bám với VSV có hại, do đó sẽ hạn chế được mầm bệnh phát triển để gây bệnh cho tôm, cá.

– Khi CPSH được sử dụng trộn vào thức ăn cho tôm, cá ăn sẽ nâng cao khả năng hấp thu thức ăn của cơ thể tôm, cá, làm giảm hệ số thức ăn và phòng, chống các bệnh nhiễm khuẩn đường ruột cho tôm cá.

Do vậy, việc sử dụng CPSH góp phần hạ giá thành sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế cho các mô hình nuôi thủy sản như:

Làm tăng hiệu quả sử dụng thức ăn (giảm hệ số thức ăn); tôm, cá mau lớn, rút ngắn thời gian nuôi; tăng tỷ lệ sống và tăng năng suất cho tôm, cá nuôi; giảm chi phí thay nước; giảm chi phí sử dụng thuốc kháng sinh, hóa chất trong việc điều trị bệnh; tạo ra sản phẩm an toàn, chất lượng và góp phần bảo vệ môi trường.

Các CPSH có tác dụng chính là phòng bệnh cho tôm, cá, cho nên cần phải sử dụng càng sớm càng tốt để phát huy tối đa hiệu quả phòng bệnh. Vì vậy, khi sử dụng CPSH cần lưu ý những yêu cầu sau:

– Nên sử dụng CPSH ngay sau khi cải tạo ao.

Vì trong quá trình cải tạo ao, diệt tạp thì hầu như các VSV (kể cả VSV có lợi và có hại) đều bị tiêu diệt. Do đó, trước khi thả giống vào ao nuôi cần phải đưa CPSH vào nước ao để phục hồi sự hiện diện của các VSV có lợi và tái tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho ao (đặc biệt là những ao ương tôm, cá giống).

– Khi sử dụng CPSH, ngoài việc xem trong thành phần có chứa các nhóm vi sinh (vi khuẩn có lợi) hay không, người sử dụng cần xem kỹ các công dụng và hướng dẫn sử dụng (có in ở ngoài bao bì) để tùy trường hợp cụ thể của mỗi ao nuôi tôm, cá mà sử dụng đúng theo công dụng và hướng dẫn để hiệu quả sử dụng CPSH đạt được cao nhất.

– Không sử dụng CPSH cùng lúc với các loại hóa chất và kháng sinh, vì kháng sinh và hóa chất sẽ làm chết các nhóm vi sinh của các CPSH, do đó việc sử dụng CPSH sẽ không có hiệu quả.

– Nếu đã sử dụng các loại hóa chất (Formol, thuốc tím, phèn xanh, BKC …) tạt vào ao nuôi thì khoảng 2 – 3 ngày sau nên sử dụng CPSH để khôi phục lại các nhóm VSV có lợi trong nước để cải thiện chất lượng nước và hạn chế ô nhiễm môi trường.

– Nếu đã sử dụng kháng sinh để trị bệnh thì sau khi ngưng sử dụng kháng sinh nên dùng các loại men vi sinh trộn vào thức ăn cho tôm cá ăn để khôi phục lại hệ men đường ruột vì thuốc kháng sinh đã làm chết hệ men đường ruột trong hệ tiêu hóa của tôm, cá.

– Cần lưu ý đến điều kiện bảo quản các CPSH ở các nơi cung ứng, vì các CPSH nếu để nơi có ánh nắng trực tiếp thì sẽ làm chết các nhóm VSV có lợi trong CPSH, do đó việc sử dụng CPSH sẽ không còn tác dụng.

Sử dụng CPSH trong quy trình nuôi thủy sản được xem là một tiến bộ khoa học – kỹ thuật, có ý nghĩa sâu xa là tạo được sự an toàn về môi trường, cũng như an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng. Vì sức khỏe con người và sự phát triển nghề nuôi thủy sản bền vững, hãy ứng dụng chế phẩm sinh học để sản xuất ra những sản phẩm thực phẩm thủy sản an toàn, chất lượng.

Theo: KS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG DUNG


Các nhà nghiên cứu Cơ quan Nghiên cứu Nông nghiệp Mỹ phát triển giống cá rô phi kháng bệnh


Hoa Kỳ hàng năm nhập khẩu gần 1 tỷ USD cá rô phi trong khi sản xuất thêm 30 triệu pao loại cá này, làm cho cá rô phi là loài cá tiêu thụ nhiều thứ tư nước này.

Trên toàn cầu, cá rô phi nuôi là một ngành hàng năm mang lại gần 8 tỷ USD. Những người nuôi cá rô phi tương tự mất khoảng 1 tỷ USD mỗi năm vì bệnh do vi khuẩn Streptococcus. Các thủ phạm chính là hai loại vi khuẩn Streptococcus agalactiae và S. iniae.

Các nhà khoa học của Cơ quan Nghiên cứu Nông nghiệp Mỹ (ARS) và các đối tác ngành đã phát triển giống cá rô phi kháng cả S. iniae và S. agalactiae.

Các chiến lược để chống lại bệnh do vi khuẩn Streptococcus là có hiệu quả, nhưng không phải không có mặt hạn chế. Các loại vắc-xin và kháng sinh thì đắt tiền, và sử dụng kháng sinh làm tăng các mối lo ngại về kháng kháng sinh.

Benjamin LaFrentz và Craig Shoemaker, các nhà sinh vật học phân tử thuộc Đơn vị Nghiên cứu Thú y Thủy sản thuộc ARS ở Auburn, Alabama đã chỉ ra rằng việc chọn tạo giống kháng bệnh là một lựa chọn thay thế đầy hứa hẹn.

Phối hợp với Akvaforsk Genetics, một công ty chọn tạo giống chuyên về các loài nuôi trồng thuỷ sản, và Spring Genetics, một công ty lai tạo và phân phối cá rô phi, LaFrentz và Shoemaker đã đánh giá cá rô phi kháng lại vi khuẩn S. iniae và S. agalactiae. Họ nhận thấy rằng việc lai giống giữa những con cá có sức đề kháng tốt nhất tạo nên giống cá rô phi có khả năng đề kháng với vi khuẩn tốt hơn giống cá rô phi khác.

Nghiên cứu bước ngoặt này mở đường cho việc phát triển nhiều dòng cá rô phi có khả năng đề kháng với các mầm bệnh khác. Dữ liệu của Spring Genetics cho thấy các dòng cá rô phi cải tiến sẽ giúp một trang trại có quy mô trung bình tiết kiệm gần 635.000 USD mỗi năm.

Các nghiên cứu được xuất bản trong tạp chí Nuôi trồng thủy sản sẽ giúp người nuôi cá sản xuất cá chất lượng tốt hơn và sử dụng kháng sinh ít hơn.

HNN (Theo fis.com)

Thức ăn tốt hơn, công nghệ cải tiến giúp thúc đẩy sự tăng trưởng của tôm Ecuador


Jose Antonio Camposano, Giám đốc điều hành Phòng nuôi trồng thủy sản của Ecuador, cho biết: Sự cải tiến công nghệ và thức ăn tốt hơn đang đẩy sản lượng tôm của Ecuador lên các mức kỷ lục,.

Tuy nhiên, theo một số nguồn tin của Undercurrent News, nguồn cung ấu trùng thấp hơn đe dọa sự tăng trưởng trong tương lai.

Camposano nói với Undercurrent trong một cuộc phỏng vấn tại Triển lãm Aqua Expo Guayaquil 2017 gần đây rằng ngành tôm vẫn cam kết giảm việc sử dụng các loại kháng sinh, mức sử dụng đã “rất thấp” so với các nước khác.

Ông cho biết: Các nhà sản xuất ở Ecuador cũng sử dụng nhiều phương pháp cải tiến công nghệ hơn vào sản xuất tôm. Các cải tiến này bao gồm nhiều máy cho ăn tự động, máy sục khí hơn để tăng oxy và tái sử dụng nước, xử lý nước và sử dụng probiotic ngoài việc cải tiến thức ăn và di truyền học.

Ông Camposano cho biết: Ngành nuôi tôm Ecuador “tiếp tục học hỏi”. Với những tiến bộ công nghệ, trách nhiệm của chúng tôi với tư cách là một trong những nhà cung cấp tôm chính cho thế giới là mở hướng đi cho ngành tôm”.

Camposano cho biết việc tiếp tục nâng cấp công nghệ đã cải thiện việc nuôi tôm và tỷ lệ sống của tôm tại các trại nuôi, dẫn đến sản lượng tôm cao hơn mà không làm tăng mật độ.

Ông nói thêm rằng việc tăng mật độ trang trại sẽ cần phải đi kèm với việc nâng cấp “đầy đủ” về công nghệ.

Ông Camposano cũng cho biết ngành tôm nước này đã tuân theo các tiêu chuẩn tốt hơn để “thách thức các đối thủ cạnh tranh của mình”, giới thiệu một hệ thống sản xuất đã “tạo ra những kết quả hấp dẫn với sự minh bạch”.

Tăng trưởng sản lượng

Ông Camposano nói với Undercurrent: Từ tháng 1 đến tháng 8/2017, Ecuador đã sản xuất được tổng cộng 620 triệu pao (281.227 tấn) tôm, trị giá 1,9 tỷ USD. Con số này đánh dấu mức tăng trưởng 15% so với cùng kỳ năm ngoái cả về giá trị và khối lượng, vì giá vẫn ổn định.

Sản lượng tôm tháng 7/2017 giảm 20% so với cùng kỳ năm trước, do nhiệt độ lạnh hơn so với tiêu chuẩn được bù đắp bởi sự tăng trưởng sản lượng tôm trong những tháng khác của năm.

Việc giảm sản lượng tôm trong tháng 7 là điều bình thường. Ông Camposano cho biết: Năm nay, tình trạng này đáng chú ý hơn một chút, bởi vì mùa mưa - do hiện tượng El Nino - kéo dài đến tháng 5 và tháng 6 thay vì kết thúc vào tháng 4 và sự khởi đầu của mùa “lạnh” đã bị trì hoãn một chút.

Sản lượng tôm của Ecuador vào tháng 8 đã tăng khoảng 9% so với cùng kỳ năm ngoái ở mức 73 triệu pao (32.000 tấn), trị giá 220 triệu USD.

Về dự báo tổng sản lượng năm 2017, Camposano vẫn bảo thủ hơn so với một số nhà sản xuất, dự báo tăng trưởng 8-9% so với năm 2016 đến 870-880 triệu pound tôm (394.625-399.161 tấn).

Sandro Coglitore, người điều hành trại nuôi tôm và nhà chế biến Omarsa, nói với Undercurrent: Sản lượng tôm chân trắng ở Ecuador vào năm 2017 dường như dễ dàng vượt qua mức 400.000 tấn,.

Chủ tịch Công ty nuôi và chế biến tôm Songa, Ông Rodrigo Laniado Romero, nói rằng nếu tốc độ tăng trưởng trong tám tháng đầu năm tiếp tục cho đến cuối năm, Ecuador có thể đạt được tổng sản lượng 421.565 tấn.

Năm 2016, Ecuador xuất khẩu tổng cộng 799,8 triệu pound tôm (362.808 tấn), tăng 11% so với năm 2015.

Nguồn cung ấu trùng tôm là một thách thức

Một số nguồn tin của Undercurrent ở Ecuador chỉ ra rằng nguồn cung ấu trùng là một thách thức cho ngành tôm, điều này có thể làm chậm tăng trưởng. Theo một số nguồn tin, đây là một vấn đề đã tồn tại từ năm ngoái, nhưng, bất chấp điều này, sản lượng tôm của Ecuador vẫn tiếp tục tăng trong năm 2017 so với năm ngoái.

Tuy nhiên, một số nguồn tin cho biết vấn đề đang trở nên nghiêm trọng hơn.

Một nguồn tin cho biết: “Ấu trùng chết với số lượng lớn xảy ra ở nhiều nơi không chỉ ở khu vực bán đảo. Người nuôi phải cẩn thận trong việc lựa chọn ấu trùng, Vấn đề này sẽ phải được xử lý một cách cẩn trọng, Sản lượng tôm trong tương lai sẽ giảm do thiếu ấu trùng có chất lượng”.

Vấn đề này đã khiến các phòng thí nghiệm ở bán đảo Santa Elena phải đóng cửa.

Hiện nay, 3 phòng thí nghiệm đã đóng cửa và đang được rao bán, hơn 20 phòng thí nghiệm đã được cách ly tự động để làm khô và khử trùng, những phòng thí nghiệm khác tiếp tục bị nhiễm virus và kết quả là tình trạng thiếu ấu trùng tôm mà không ai có thể ngăn chặn tạo nên một tình trạng hết sức nghiêm trọng cho Ecuador.

Tuy nhiên, một nguồn tin từ Undercurrent cho biết, vấn đề này chỉ giới hạn ở Zona de Mar Bravo - Salinas, trong khi nó không ảnh hưởng đến các phòng thí nghiệm ở Manabi hoặc ở phía bắc, cũng như ở Esmeraldas. Nguồn tin cho biết bệnh ảnh hưởng đến ấu trùng là hội chứng chết sớm.

Các thị trường xuất khẩu

Ông Camposano ghi nhận: Châu Á là điểm đến chính của tôm Ecuador hiện nay.

Camposano nhấn mạnh rằng thị trường Hoa Kỳ, nơi việc tiêu thụ tôm đang phát triển, có tiềm năng lớn cho các nhà sản xuất tôm ở Ecuador để tăng xuất khẩu.

Thị trường tôm Liên minh châu Âu vẫn ổn định, nhờ thỏa thuận thương mại tự do giảm thuế nhập khẩu đối với tôm Ecuador từ 3,6% xuống 0% vào đầu năm nay.

Ông nói: “Điều này đã cho phép nhà nhập khẩu châu Âu và nhà xuất khẩu Ecuador yên tâm tiếp tục việc kinh doanh”.

Ông Camposano cho biết: Xuất khẩu tôm sang châu Âu tăng trưởng không nhiều, nhưng điều quan trọng là Ecuador đã giữ thị phần của mình, và ông chỉ ra rằng Ecuador là nhà xuất khẩu tôm chính sang châu Âu, với 24% thị trường, tiếp đó là Ấn Độ.

Ông Camposano nói: Ecuador đã sẵn sàng thay thế và tăng doanh số bán tôm sang EU, nếu Ấn Độ bị tẩy chay với lệnh cấm nhập khẩu vào cuối năm nay.

Đề cập đến khả năng lệnh cấm của EU đối với tôm Ấn Độ, Camposano lưu ý rằng “Nếu các cơ quan chức năng không áp dụng các biện pháp trừng phạt thích hợp, các nước không điều chỉnh các hoạt động nuôi của mình sẽ tiếp tục tái phạm”.

Đề cập đến việc sử dụng kháng sinh, Ông Camposano cho biết Ecuador đã dẫn đầu một sáng kiến ​​“thay đổi nuôi trồng thủy sản trên thế giới” về tính minh bạch và khả năng truy xuất nguồn gốc.

Ông nói: “Việc sử dụng kháng sinh ở Ecuador rất ít so với các nước khác và ngày nay chúng tôi có 8-10% trang trại không sử dụng kháng sinh trong bất kỳ giai đoạn nào và chúng tôi muốn tăng quy mô này”.

Trong khi đó, các nhà sản xuất tôm ở Ecuador đang chờ sự mở cửa của thị trường Braxin, sau khi đã đăng ký xuất khẩu tôm.

Camposano cho biết: “Các công ty đã được phép xuất khẩu và đang chờ đợi việc ghi nhãn được chấp thuận”, ông nhấn mạnh rằng việc xuất khẩu tôm không gây nguy cơ cho sản xuất tôm của Braxin, do Hiệp hội các nhà sản xuất tôm địa phương ABCC, Braxin đã tuyên bố phản đối việc tự do hoá thị trường tôm trong nước.

HNN (Theo undercurrentnews)

Chia sẻ bí quyết câu cá chép trên sông hiệu quả nhất


Câu cá chép trên sông, hồ là một hình thức giải trí của nhiều đấng mày râu Hà Thành sau những giờ lao động vất vả. Và cách câu cá chép sông hiệu quả nhất không phụ thuộc vào đồ câu đắt tiền hay rẻ tiền mà quyết định ở kỹ thuật của người câu.

Câu cá chép khổng lồ có cần dùng cần xịn không?

Có người cho rằng, câu cá là trò mà trẻ con cũng làm được. Chỉ cần có đủ đồ nghề, đồ câu xịn là sẽ câu được nhiều cá và câu được cá to. Nhưng, chỉ những người thường vác cần đi câu mới biết được, để câu được cá, nhất là câu cá chép sông hay câu cá chép khổng lồ cần có kỹ thuật điêu luyện. Chẳng thế mà mấy cần thủ câu cá chép sông thường đùa nhau “câu cá là một nghệ thuật và người câu cá là một nghệ sỹ”.

Theo kinh nghiệm của những tay chuyên câu cá chép sông, hồ thì yếu tố quan trọng nhất để trở thành cần thủ giỏi chính là kỹ thuật của người câu. Và kỹ thuật đó phải được đúc kết qua nhiều lần đi câu, qua việc học hỏi tập tính, đặc điểm loài cá chép, hiểu biết về thời tiết, địa hình câu và sự kết hợp hài hòa giữa mồi câu, phao, lưỡi câu và dây câu...

Cần câu là dụng cụ hỗ trợ quan trọng nhưng không phải thiết yếu nhất khi câu cá chép sông, hồ. Do đó, cách câu cá chép sông hiệu quả nhất không phải là tìm mua cần xịn, có giá mấy chục triệu hay những dụng cụ đi kèm phải chất, giá trị xa xỉ. Thực tế có rất nhiều cần thủ chỉ dùng cần trúc giá mấy chục nghìn hay ống bơ cuốn dây cước lại câu cá chép khổng lồ nặng cả yến.

Điều này hoàn toàn có thật, bởi, trước đây khi mà chưa có cần máy hiện đại, dụng cụ đi kèm kiểu cách, những tay câu cá chuyên nghiệp thế hệ cha chú vẫn tự chế cành tre, dây cước, dây chỉ, móc câu, lông gà, thính, giun thành đồ nghề câu cá. Dụng cụ tuy đơn sơ nhưng họ vẫn câu được cá chép khổng lồ tại sông, hồ. Còn ngày nay, nhiều người sắm đồ câu đẹp, xịn cho khỏi thua bạn kém bè nhưng chỉ câu được những chú cá rô phi bé tẻo teo.

Do đó, để câu cá chép khổng lồ, câu cá chép sông không nhất thiết phải dùng cần xịn, việc sắm sửa bộ đồ câu thế nào phụ thuộc khả năng tài chính, sự thuận tiện, thói quen, sở thích của mỗi người. Đồng thời, nó còn phụ thuộc kinh nghiệm, kỹ thuật của người câu. Và điều đó cần có sự học hỏi, trải nghiệm và tích lũy kiến thức từ bản thân mỗi cần thủ.


Cách câu cá chép sông hiệu quả nhất

Nói người câu cá là một nghệ sỹ quả cũng không ngoa. Bởi, việc họ quan sát và cảm nhận được hướng đi của cá, nhìn bọt nước biết khu vực đó có cá gì, chế thính, mồi ra sao cho hợp khẩu vị từng loài hay cách quăng lưỡi câu trúng vào ổ thính dụ cá là cả một nghệ thuật mà dân ngoại đạo khó có thể làm được.

Và cách câu cá chép sông hiệu quả là biết lựa chọn lưỡi câu và chế biến mồi, thính phù hợp với lưỡi câu và đúng sở thích của loài cá chép. Có rất nhiều cách để làm mồi câu cá chép sông, hồ, nhưng hiệu quả nhất là mồi lăng xê, mồi thính, mồi tổng hợp… Những mồi này làm từ giun, ốc, cơm, khoai lang, ngũ cốc, bột mì… và được kết hợp khéo léo với lưỡi đơn, lưỡi lục để câu cá chép khổng lồ.

Việc kết hợp đó phải được làm một cách khéo léo. Ví như việc khi câu cá chép sông bằng lưỡi đơn hay lưỡi lục (chùm 6 lưỡi câu) thường dùng mồi thính hoặc mồi tổng hợp, những mỗi loại lưỡi câu cũng cần có những kỹ thuật khác nhau. Nếu câu lưỡi đơn, tức là cá phải ngậm vào lưỡi câu thì tỷ lệ thành công mới cao. Do đó, để cá ngậm trúng lưỡi câu thì mồi phải được gắn trực tiếp ở lưỡi câu để hấp dẫn cá. Còn câu cá chép sông bằng lưỡi lục, cần thủ không cần gắn mồi trực tiếp ở lưỡi câu, mà chỉ cần quăng thín dụ đàn cá đến, sau đó khéo léo quăng lưỡi câu gần sát ổ thính để cá bơi qua khu vực ổ thính mắc câu.


Đặc biệt, khi câu cá chép khổng lồ các cần thủ hay sử dụng lăng xê. Ưu điểm của cách câu cá chép sông này là mồi nằm đa số vị trí tĩnh do có thể lăng xa. Hơn nữa, mồi bó khó bị các loài cá khác rỉa tan hết và các móc con dễ vào miệng cá chép khi chúng nếm mồi.

Câu lưỡi đơn, lưỡi lục, lăng xê đều là những cách câu thích hợp với những người thích ngồi tĩnh lặng, thích cảm giác chờ cá cắn câu. Nhưng với những người hoạt bát, thích chủ động họ lại lựa chọn cách câu ba tiêu để chủ động săn cá. Cách câu cá chép sông bằng ba tiêu đòi hỏi kỹ thuật điêu luyện, bởi người câu phải liên tục quăng cần đi xa với các hướng khác nhau mà không cần mồi, thính dụ cá. Đặc biệt, người câu phải cảm nhận được hướng đi của đàn cá để tung lưỡi ba tiêu và lưỡi câu được ném càng xa càng tốt, chỉ cần cá đi vào đường quăng của lưỡi là sẽ không thể thoát thân. Cách câu cá chép sông này phù hợp với địa điểm câu có nhiều bùn, không vướng rác để tránh mất lưỡi. Và việc câu cá sử dụng lưỡi ba tiêu nào phụ thuộc vào cần, cần khỏe, độ cứng cao thì dùng lưỡi to. Người câu ba tiêu thường dùng cần trúc đốt ngắn, bát cước làm bằng gỗ mít và dây cước có độ bền cao làm phụ kiện câu cá chép khổng lồ.

Câu cá chép sông là một thú vui của nhiều đấng mày râu, là cách để giải tỏa những căng thẳng, mệt mỏi của cuộc sống. Và với mỗi cần thủ, tùy mục đích, sở thích mà họ có cách câu cá chép sông khác nhau, nhưng hiệu quả nhất vẫn là phải kỹ thuật điêu luyện, kinh nghiệm dày dạn của những tay săn cá lành nghề.

Triển vọng mô hình nuôi tôm hữu cơ hiệu quả cao


Sản xuất hữu cơ là một trong những ngành sản xuất xanh có thể mang lại giá trị cho các sản phẩm của Việt Nam như tôm hữu cơ trên thị trường thế giới. Đồng thời, việc nuôi tôm theo hướng hữu cơ cũng hỗ trợ trong tiến trình bảo vệ bền vững dải ven biển của ĐBSCL.

Mô hình nuôi tôm hữu cơ

Hiện nay, mô hình nuôi tôm hữu cơ được một số tỉnh áp dụng như Cà Mau, TP Hồ Chí Minh đem lại hiệu quả bền vững.

Tại  TP Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Văn Nam, Chủ tịch UBND xã An Thới Đông (huyện Cần Giờ), cho biết: Vài năm trước, nhiều hộ nuôi tôm sú trong xã bị thua lỗ do môi trường nước ô nhiễm, bà con đã chuyển sang nuôi tôm hữu cơ, phát huy tốt lợi thế, mang lại hiệu quả thiết thực.

Xã An Thới Đông hiện có diện tích nuôi tôm sú khoảng 1.300 ha, trong đó nhiều hộ tự học hỏi kinh nghiệm nuôi tôm sú hữu cơ an toàn với diện tích từ 5 đến 7ha/hộ. Anh Đỗ Mạnh Hùng, trú tại ấp Doi Lầu, một chủ trang trại đang đầu tư ao tôm sú hữu cơ rộng 5ha, chia sẻ: “Hằng tuần, chúng tôi đều được cán bộ kỹ thuật của xã và Hội Nông dân hướng dẫn phương pháp chăm sóc tôm. Trung bình một héc ta, gia đình tôi đầu tư làm sạch ao, trải bạt xung quanh, xử lý nước… hết khoảng 20 đến 25 triệu đồng, tùy thời vụ. Song, cách nuôi hữu cơ bảo đảm cho con tôm phát triển ổn định, không bị dịch bệnh lây lan. Vì thế, cứ mỗi vụ tôm, thường 6 - 7 tháng/vụ, gia đình tôi thu hoạch được tôm sú loại 20 - 25 con/kg với giá khoảng 180.000 đồng/kg. Lãi suất cao hơn 10.000 đồng/kg so với cách nuôi thường”.

Nuôi tôm hữu cơ và nuôi tôm thông thường

có những điểm khác so với nuôi tôm sú theo phương pháp thông thường. Nguồn nước và môi trường là quan trọng nhất. Nguồn nước trước khi đổ vào ao tôm phải là nước biển sạch, có thả một số loại cá để giữ sinh thái ổn định. Sau ít ngày nước lắng đọng tạp chất xuống thì mới bơm nước biển mặn đó vào ao tôm, rồi thả tôm giống xuống. Ao tôm phải trải bạt từ phần tiếp giáp mặt nước đến tận đáy; mặt đáy ao là đất hữu cơ bình thường, không sử dụng bất cứ loại hóa chất nào. Con tôm sú giống được nuôi bằng bã đậu nành ủ với men chua trong vòng 45 ngày, sẽ nhanh lớn và tăng trưởng an toàn. Hiện nay, cách nuôi tôm này chi phí đầu tư thấp, hạn chế được dịch bệnh, không sử dụng kháng sinh nên phát triển khá nhiều tại huyện Cần Giờ. Theo thống kê, toàn huyện có hơn 20 ha, tập trung chủ yếu ở xã An Thới Đông và xã Lý Nhơn.

Đầu năm 2016, xã An Thới Đông có hai hộ thực hiện chuyển đổi mô hình sản xuất từ nuôi tôm thông thường sang nuôi tôm công nghiệp trải bạt lưới và nuôi tôm bằng thức ăn hữu cơ với tổng diện tích 12ha; mức đầu tư chuyển đổi khoảng 500 triệu đồng/ha.

Tính đến nay, sản lượng thu hoạch sau chuyển đổi mùa thuận đạt 40 tấn/ha, mùa nghịch đạt 10 tấn/ha. Thu nhập bình quân mỗi năm gần 1 tỷ đồng/ha, cao hơn nhiều so với cách nuôi tôm trước đây, góp phần nâng cao đời sống nông dân huyện Cần Giờ.

H.L (Tổng hợp)

Giải pháp mới điều trị bệnh đốm đen trên tôm thẻ chân trắng


Những đốm đen khó coi có thể xuất hiện trên thân tôm, tôm nguyên liệu không phải là hư hỏng, mà là do một en-zim sản sinh tự nhiên. Trong khi tôm nhiễm bệnh đốm đen hoàn toàn có thể ăn được, người tiêu dùng dứt khoát sẽ từ chối loại tôm này.

Ngành tôm chủ yếu sử dụng một trong hai phương pháp điều trị để kiểm soát bệnh đốm đen (melanosis): bột natri metabisulfite và 4-hexylresorcinal. Loại thứ hai là một phương pháp xử lý mới hơn, và theo một số phương diện thì tốt hơn, vì bột natri metabisulfite được sử dụng rộng rãi hơn nên rẻ hơn, nhưng mang một số nguy cơ đối với những người thực hiện việc xử lý tôm cũng như đối với một số người tiêu thụ tôm.

Sulfites là một chất bảo quản thông thường được sử dụng trong rượu vang và trong thịt xông khói, để giữ cho màu hồng hấp dẫn không bị chuyển sang màu nâu. Trước đây, chất này cũng được sử dụng cho rau diếp làm món xa-lát trong các nhà hàng, đặc biệt là khi món xa-lát trở nên phổ biến, cho đến khi Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) cấm sử dụng chất này với trái cây và rau quả tươi vào năm 1986. Đây là phản hồi đối với đơn kiến nghị của một nhóm người tiêu dùng, Trung tâm Khoa học vì lợi ích Cộng đồng, nhóm người đã muốn có một lệnh cấm trên phạm vi rộng hơn, do 13 người chết liên quan đến hóa chất này cho đến thời điểm đó.

Sulfites an toàn đối với hầu hết mọi người. Nhưng một số người, chủ yếu là người mắc bệnh hen, bị phản ứng dị ứng. Những người này phải cẩn thận tránh các loại thực phẩm được xử lý bằng sulfites, bao gồm rượu, trái cây sấy khô, một số sản phẩm thịt bảo quản - và tôm.

Theo FDA, những người nhạy cảm với sulfites chiếm khoảng 1% dân số - tương ứng với khoảng 3,2 triệu người Mỹ. Cơ quan này yêu cầu các thực phẩm được xử lý phải được dán nhãn về sự an toàn của thực phẩm nhưng nhãn hiệu có thể khiến những người khác không mua, vì nhãn cảnh báo có thể được xem là chất lượng kém ngay cả đối với những người không có phản ứng với sulfites. Đây là lý do chính để phát triển một phương pháp điều trị thay thế không gây dị ứng và không yêu cầu nhãn như vậy.

Các hợp chất hữu cơ 4-hexylresorcinal được sử dụng trong thuốc điều trị các bệnh về họng và kem dưỡng da (bao gồm cả sản phẩm Neutrogena), nhưng nó cũng liên kết và vô hiệu hóa các en-zim gây nên tình trạng đốm đen ở tôm. Có hai loại chính có sẵn để sử dụng với tôm là EverFresh và PrawnFresh.

Liên minh châu Âu, Canada, Nam Phi, Australia và Trung Quốc đều chấp thuận 4-hexylresorcinal như là một chất trợ giúp chế biến. Ở Mỹ, Mỹ có trạng thái “được công nhận là an toàn (GRAS)” của FDA. Tuy nhiên, Nhật Bản, một trong những thị trường tiêu thụ tôm lớn nhất thế giới, chưa chấp thuận việc sử dụng chất này - rõ ràng vì không có đơn nào xin phê duyệt.

Ngoài các vấn đề về dị ứng và các nhãn cảnh báo, 4-hexylresorcinal có một số lợi thế khác, cũng như một vài bất lợi. Natri metabisulfit có thể gây kích ứng mắt và mũi của công nhân khi xử lý tôm và có thể sản sinh khí sulfur dioxide khi tiếp xúc với nước, có thể gây tử vong cho người lao động trong không gian hạn chế của khoang tàu.

Theo một nghiên cứu năm 1993 của Đại học Y khoa Texas ở Galveston, sản phẩm natri có thể phản ứng trong điều kiện nhất định với nước và axit từ thân tôm để tạo ra sulfur dioxide. Lực lượng Cảnh sát biển Hoa Kỳ cho biết trong khoảng từ năm 1970 đến năm 1993, việc sử dụng hóa chất trong những khoang thuyền tôm không được thông gió trong các vùng nước nóng trong những tháng nóng của năm khiến 11 người chết và 32 người bị thương. Đây không phải là mối nguy với 4-hexylresorcinal.

Bất lợi của 4-hexylresorcinal chủ yếu là chi phí cao hơn. Một nghiên cứu năm 2006 của Sở Kỹ nghệ sơ cấp và Thuỷ sản Queensland ở Australia đã chỉ ra chi phí cho việc nhúng 1 kg tôm chế biến trong thời gian 60 giây vào sodium metabisulfite là 0,026 AUD (0,019 USD, 0,017 EUR), trong khi đó, với thời gian khuyến nghị là 2 phút - chi phí sử dụng EverFresh là 0,128 AUD (0,01 USD, 0,009 EUR). Việc ngâm tôm trong 24 giờ cho hiệu suất chi phí tốt hơn, nhưng có thể dẫn đến dư lượng cao hơn.

Theo: HNN, Tổng cục Thủy sản (Theo seafoodsource)

Biến đổi khí hậu thách thức sự sống còn của các loài cá trên toàn thế giới

Biến đổi khí hậu sẽ buộc nhiều động vật lưỡng cư, động vật có vú và chim di chuyển đến các khu vực lạnh hơn ngoài phạm vi sống bình thường của chúng. Nhưng cơ hội để các loài cá sống sót khi biến đổi khí hậu tiếp tục làm ấm các vùng nước trên thế giới là gì?


Các nhà nghiên cứu của Đại học Washington (UW) đang giải quyết câu hỏi này trong phân tích đầu tiên về mức độ dễ tổn thương của các loài cá nước ngọt và cá biển trên thế giới đối với biến đổi khí hậu. Báo cáo này đã sử dụng số liệu về sinh lý học để dự đoán rằng gần 3.000 loài cá sống ở các đại dương và sông sẽ phản ứng thế nào với nhiệt độ nước ấm lên ở các vùng khác nhau.

Tác giả chính Lise Comte, nhà nghiên cứu sau tiến sỹ thuộc Trường Khoa học Thủy sản của UW, cho biết: “Biến đổi khí hậu đang diễn ra. Chúng tôi cần các công cụ để xác định những khu vực có nguy cơ cao nhất và cố gắng xây dựng kế hoạch bảo tồn những khu vực này. Điều quan trọng là chúng ta phải tự nhìn vào các sinh vật này vì chúng ta không thể giả sử rằng tất cả các loài đều nhạy cảm với những thay đổi này”.

Các nhà nghiên cứu thu thập dữ liệu từ các thí nghiệm thực nghiệm về gần 500 loài cá được tiến hành trong 80 năm qua bởi các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới. Những thí nghiệm chuẩn này đo nhiệt độ cao nhất mà cá có thể chịu được trước khi chết. Lần đầu tiên trong phân tích này, các dữ liệu khác nhau từ các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm đã được kết hợp và sử dụng để dự đoán cá sẽ phản ứng như thế nào trong tự nhiên.

Các nhà nghiên cứu thấy rằng tổng thể, độ nhạy cảm đối với sự thay đổi nhiệt độ rất khác nhau giữa cá biển và cá nước ngọt. Phân tích cho thấy nhìn chung, cá biển ở các vùng nhiệt đới và cá nước ngọt ở vĩ độ cao của bán cầu bắc có nguy cơ cao nhất khi nhiệt độ nước ấm lên.

Julian Olden, Giáo sư về Khoa học Thủy sản cho biết: “Không nơi nào trên trái đất cá không bị ảnh hưởng do phải đối mặt với biến đổi khí hậu. Loài cá có những thách thức đặc biệt - chúng hoặc phải di chuyển nhanh để đáp ứng các yêu cầu về nhiệt độ của mình, hoặc chúng sẽ buộc phải thích ứng nhanh chóng”.

Sử dụng dữ liệu trong nhiều năm và dựa vào thực tế là nhiều loài cá có liên quan theo sự phân loại và có xu hướng chia sẻ cùng một giới hạn nhiệt - các nhà nghiên cứu đã có thể dự đoán nhiệt độ giới hạn cho gần 3.000 loài. Các mô hình khu vực sau đó xuất hiện khi những dữ liệu này được ghép với dữ liệu mô hình khí hậu dự báo nhiệt độ tăng theo biến đổi khí hậu.

Ví dụ, cá ở các vùng biển nhiệt đới vốn đã đang sống trong các vùng nước đang tiến đến mức chịu đựng cao. Chúng có thể không có nhiều khả năng chống chịu khi nhiệt độ tăng nhẹ. Ngược lại, ở các vùng nước ngọt xa về phía bắc, cá thường quen với nhiệt độ nước mát hơn nhưng lại ít chịu đựng được các vùng nước ấm lên.

Các nhà nghiên cứu giải thích cá sẽ di chuyển, thích ứng hoặc chết khi nhiệt độ tiếp tục ấm lên. Olden cho biết với tốc độ tiến hóa trong quá khứ với các giới hạn nhiệt quan trọng, có vẻ như các loài cá sẽ không theo kịp tốc độ tăng nhiệt độ. Khả năng di chuyển là điều bắt buộc đối với cá sống trong những khu vực quan trọng nhất được xác định trong phân tích này.

Hiện tại, các đập nước và các cơ sở hạ tầng khác có thể ngăn không cho cá tiếp cận nơi chúng có thể cần trong tương lai; các thang dành cho cá và các phương tiện khác cho phép cá phá vỡ các rào cản này có thể được sử dụng dễ dàng hơn, mặc dù hiệu quả của các cấu trúc này là rất khác nhau.

Ngoài ra, các hành động để khôi phục lại thảm thực vật dọc theo các rìa các dòng suối và hồ có thể giúp che bóng mát và giảm nhiệt độ nước vì lợi ích của cá.

Olden cho biết: “Các loài cá trên toàn thế giới phải đối mặt với những thách thức gắn liền với biến đổi khí hậu. Nhìn về phía trước, cần có những nỗ lực tiếp tục hỗ trợ các chiến lược bảo tồn cho phép các loài đáp ứngvới những thay đổi nhanh chóng này”.

HNN (Theo phys.org)

Cần quyết liệt ngăn chặn hành vi bơm tạp chất vào tôm

Thời gian vừa qua, hình ảnh con tôm Việt Nam đã bị ảnh hưởng không nhỏ do sự gian dối của một số thương lái thu mua tôm của Việt Nam và nước ngoài. Chính phủ đã chỉ đạo các bộ ngành liên quan quyết liệt xử lý và ngăn chặn, không để tái diễn các hành vi gian lận thương mại, trong đó có hành vi bơm tạp chất vào tôm để bảo vệ uy tín và hình ảnh con tôm Việt Nam.


Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) là khu vực diễn ra hoạt động bơm tạp chất vào tôm nhiều nhất trong cả nước, đặc biệt là các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu. Tại Bạc Liêu, tính riêng đợt ra quân cao điểm vào cuối năm 2016, 9 cơ sở bơm tạp chất vào tôm đã bị phát hiện. Tại Cà Mau, riêng năm 2016, sở Nông nghiệp đã tiến hành 64 đợt kiểm tra và phát hiện 57 vụ sai phạm, với số lượng gần 12 tấn tôm tạp chất. Ngoài ra, các đoàn công tác liên ngành của tỉnh Cà Mau còn phát hiện và xử lý thêm 36 vụ sai phạm, với số lượng tôm trên 9 tấn. Cũng vào giai đoạn cuối năm 2016, Cục An ninh Kinh tế Nông, lâm, ngư nghiệp (thuộc Tổng cục An ninh, Bộ Công an) đã phối hợp với một số đơn vị liên quan và cơ quan chức năng Cà Mau, Bạc Liêu tiến hành đợt kiểm tra tình trạng bơm tạp chất trên địa bàn 2 tỉnh này, phát hiện 3 cơ sở, 2 doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sai phạm trong hành vi bơm chích tạp chất vào tôm nguyên liệu.

Đặc biệt, hành vi bơm tạp chất chỉ do thương lái và các cơ sở thu mua tôm trung gian thực hiện chứ không phải xuất phát từ người nuôi tôm. Ban đầu, chỉ một vài thương lái nước ngoài thu mua tôm của nông dân thông qua thương lái Việt Nam yêu cầu bơm tạp chất vào tôm để kiếm lợi bất chính. Từ 1kg tôm, sau khi bơm tạp chất, thương lái có 1,2kg tôm. Thấy cái lợi trước mắt, nhiều công ty Việt Nam cũng buộc các thương lái người Việt Nam phải bơm tạp chất vào tôm thì họ mới mua, từ đó dần hình thành trào lưu xấu, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành nuôi, chế biến và xuất khẩu tôm của nước ta. Điều đáng lo ngại là tạp chất đã xuất hiện ở cả những lô hàng xuất khẩu sang Mỹ, Nhật, những thị trường mà Việt Nam phải rất vất vả mới tiếp cận được. Nếu tình trạng này tiếp diễn, chắc chắn tương lai xuất khẩu của con tôm Việt Nam sẽ gặp rất nhiều gian nan.

Người dân rất bất bình khi con tôm mình nuôi ra là tôm sạch, qua tay trung gian, thương lái bị biến thành tôm bẩn, làm ảnh hưởng tới chính chất lượng, giá tôm và cả sinh kế của người dân trong tương lai. Suy rộng hơn, cả ngành xuất khẩu thủy sản lẫn nền kinh tế của Việt Nam cũng sẽ phải chịu ảnh hưởng. Ngoài ra, nhìn vào những bài học đắt giá mà nông sản Việt Nam gặp phải trong thời gian qua, có thể thấy nếu không sang suốt tự bảo vệ chính mình, con tôm Việt Nam sớm muộn cũng sẽ rơi vào bàn tay thao túng của các thương lái nước ngoài, giống như nhiều mặt hàng nông sản khác của Việt Nam.

Tại Hội nghị phát triển ngành tôm Việt Nam diễn ra tại Cà Mau, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cũng yêu cầu kiên quyết xử lý hành vi bơm tạp chất vào tôm  để trục lợi bất chính, đồng thời nêu rõ Chính phủ và toàn thể xã hội tuyên chiến với những hành vi gian lận này. Cùng với việc nêu cao tinh thần đoàn kết của người nuôi tôm, các doanh nghiệp thu mua, chế biến, xuất khẩu tôm để xây dựng ngành tôm Việt Nam, các cơ quan quản lý nhà nước cần phải nghiêm túc xử lý các vi phạm, trả lại cho thị trường tôm một môi trường sản xuất, kinh doanh lành mạnh, bền vững. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý, phải có cơ chế quản lý để giúp người nông dân tận dụng, khai thác tốt những ưu thế từ các thị trường xuất khẩu, như tổ chức thu mua trực tiếp từ người nông dân, không thông qua thương lái, xuất khẩu theo con đường chính ngạch.

Hương Trà

Các đại dương trên thế giới trong tình trạng bất ổn nghiêm trọng

Các số liệu thống kê rõ ràng đã nói lên điều này. Với mức tiêu thụ hiện tại, số lượng mảnh vụn nhựa sẽ lớn hơn các loài thủy sản ở các đại dương trên thế giới vào năm 2050.

Hơn 90% nguồn lợi thủy sản ở Địa Trung Hải bị khai thác quá mức và lượng carbon dioxide mà con người sẽ thải vào không khí vào năm 2100 có thể là đủ để gây ra một sự tuyệt chủng hàng loạt lần thứ sáu. Thêm vào đó, nhiệt độ Trái đất tiếp tục tăng, và hơn 90% lượng nhiệt thừa do khí thải nhà kính đang được hấp thu vào các đại dương bao phủ 2/3 bề mặt của hành tinh. Theo Martin Banks, điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến tăng nhiệt độ đại dương, dẫn tới các mối đe dọa khác đối với các môi trường sống của các loại thủy sản, như sự axit hóa và khử oxy.

Theo Ông Philip Stephenson, một nhà kinh doanh và nhà từ thiện người Mỹ điều hành Quỹ Philip Stephenson, “sự kết hợp của ô nhiễm ven biển, quá trình lắng đọng trầm tích, dịch bệnh, đánh bắt quá mức và đại dương ấm lên” đã làm các rạn san hô đặc biệt bị đe doạ. Ví dụ ở Caribê, nơi Tổ chức của ông hiện đang làm việc để khôi phục loài động vật không xương sống mỏng manh ở biển, “tỷ lệ san hô sống đã giảm 50% trong 4 thập kỷ qua”.

Tin tốt lành là các đại dương của thế giới cuối cùng cũng nhận được sự quan tâm. Theo Tiến sĩ Owen Day, nhà sinh học biển và là người sáng lập CLEAR Caribbean, người đang làm việc với Quỹ Philip Stephenson về khôi phục lại san hô, Liên minh Châu Âu có vai trò “then chốt” trong việc bảo vệ các đại dương, “đặc biệt là kể từ khi Hoa Kỳ rút ra khỏi Hiệp định Paris”. Và EU dường như thực sự quan tâm đến việc bảo vệ nguồn tài nguyên nước mặn của thế giới.

Ông Stephenson đồng ý với đánh giá này: “Mặc dù có nhiều vấn đề liên quan đến Chính sách Thuỷ sản Chung được sử dụng trong quản lý thủy sản của châu Âu, trong những năm gần đây khu vực này đã có những tiến bộ như lệnh cấm việc loại bỏ thủy sản đánh bắt và các biện pháp quản lý chặt chẽ hơn đối với cá tuyết Biển Bắc, nguồn lợi hiện đang hồi phục nhanh chóng”.

Đầu năm nay, Ủy ban đã thông báo kế hoạch dành hơn 550 triệu Euro để bảo vệ sức khoẻ của các đại dương, tài trợ cho hơn 30 sáng kiến ​​bao gồm các nỗ lực chống lại nạn cướp biển và đánh bắt bất hợp pháp, một hệ thống giám sát vệ tinh và một chiến lược về nhựa mới cho khối. Giám đốc đối ngoại của EU, Bà Federica Mogherini cho biết bà hy vọng rằng các nước khác sẽ hỗ trợ và tăng tổng kinh phí lên hơn 1 tỷ Euro.

Nhưng EU không nên dựa vào các thành công của mình, đặc biệt là với một Tổng thống hoài nghi với khí hậu ở Nhà Trắng. Như ngày Tiến sỹ Day nói với EUReporter: “EU và các nước thành viên cần tăng cường quyết tâm thực hiện các biện pháp giảm nhẹ để giữ nhiệt độ toàn cầu tăng dưới 1,5 độ C. Nhiều nước châu Âu đang hỗ trợ các hoạt động quản lý biển trên toàn thế giới, như thành lập các khu bảo tồn biển (MPA) xung quanh các vùng lãnh thổ ở nước ngoài của châu Âu. Ông cho biết viện trợ của châu Âu đang hỗ trợ các chương trình phát triển và thích ứng trong quản lý thủy sản và bờ biển.


“Nhưng”, ông cảnh báo, “còn nhiều điều nữa cần phải thực hiện. Thông qua kinh nghiệm trong các vấn đề biển, EU nên là một chất xúc tác quan trọng cho một thỏa thuận toàn cầu mới về quản lý và bảo vệ các vùng biển khơi. Ngoài các vùng biển của mình, EU cũng nên góp phần hạn chế đánh bắt cá IUU và các hành động bất chính khác xảy ra trên đại dương và làm hỏng các môi trường biển”.

Về các mối đe dọa cụ thể đối với các đại dương, Tiến sĩ Day ghi nhận rằng ô nhiễm biển là “vấn đề khổng lồ” ở phần lớn đại dương, “và các tác động rất lớn”, đặc biệt là khi kết hợp với hoạt động của con người. Việc các vùng ven biển tràn đầy các chất dinh dưỡng (nitrat, nitrit, amoni, phosphat - còn gọi là sự sự phú dưỡng) từ nước thải và phân bón, đang tạo ra các vùng chết lớn trên đáy biển, nơi ôxy bị cạn kiệt. Số lượng và kích thước của những khu vực chết này đang ngày càng gia tăng và các vụ thủy sản bị chết với số lượng lớn đang được ghi nhận ở nhiều nơi”.

Ông cho biết tăng lượng ô nhiễm nước thải ở các khu vực ven biển cũng là một mối đe dọa đối với sức khoẻ con người.

“Việc xả nước thải ngày càng tăng từ tàu thuyền ghé thăm các khu bảo tồn biển hoặc các điểm nóng du lịch đang ngày càng trở nên đáng lo ngại đến cả sức khoẻ của con người và các hệ sinh thái biển yếu ớt”.

Stephenson nói rằng cần phải có hành động ở cấp độ quốc tế, bao gồm cả EU, bởi vì các rạn san hô đang bị đe doạ bởi sự kết hợp của ô nhiễm ven biển, trầm tích, dịch bệnh, đánh bắt quá mức và sự nóng lên của đại dương.

Rủi ro quân sự và an ninh quốc tế cũng làm gia tăng những áp lực này và mở rộng ra ngoài các vùng kinh tế độc quyền của mỗi quốc gia. “Như vậy”, Stephenson nói, “các vùng biển khơi vẫn là vùng lãnh thổ chủ yếu không được kiểm soát, do các nhà khai thác phi đạo đức tiến hành đánh bắt bất hợp pháp, không được báo cáo và không được kiểm soát (IUU) ở quy mô công nghiệp”.

Stephenson, người quan tâm đến các tài nguyên biển trên thế giới, đã kêu gọi các chính phủ “tìm ra cách để thực hiện nhiều hành động hơn trong việc điều tiết các ngành công nghiệp của mình và bảo vệ các hệ sinh thái biển yếu đuối, đồng thời chống lại các hoạt động tội phạm đang diễn ra trên biển”. Nếu không”, ông cảnh báo “Hậu quả của việc không cắt giảm ô nhiễm biển sẽ là cả về sinh thái và kinh tế. Ô nhiễm có thể giảm đáng kể chức năng của các hệ sinh thái ven biển và dẫn đến giảm lợi ích kinh tế trong ngành thủy sản, du lịch và bảo vệ bờ biển. Các rạn san hô khỏe mạnh rất có giá trị bảo vệ bờ biển tự nhiên, và rạn san hô mất đi thường gây ra xói mòn bờ biển nhanh chóng, với việc mất đi các bãi biển và cơ sở hạ tầng ven biển. Hơn 80% các bãi biển Caribê đang bị ăn mòn nhanh chóng do sự kết hợp giữa việc mất rạn san hô và nước biển dâng”.

Lý tưởng nhất là điều này có thể được thực hiện thông qua Liên Hợp Quốc và/hoặc sử dụng các cơ chế song phương khác.

HNN (Theo eureporter)

Bài viết được xem nhiều