Cua ma cà rồng - Thú cưng mới được nuôi trong bể cá cảnh


Mặc dù có những cái càng nguy hiểm, đôi mắt vàng ám ảnh, cua ma cà rồng vẫn được ưa chuộng làm thú cưng trong bể cá.

Hai loài cua ma cà rồng đều có đặc điểm chung là đôi mắt ánh vàng, rất sáng khiến người xem bị ấn tượng ngay lập tức. Ngoài ra, màu sắc của chúng đều sặc sỡ, bắt mắt.


Gần đây, các nhà khoa học mới có tên gọi chính xác của 2 loài cua mới này, Geosesarma dennerle và Geosesarma hagen cho dù chúng đã xuất hiện trong bể cá của các gia đình nhiều năm nay.

Loài cua ma cà rồng có nguồn gốc từ những dòng sông trên hòn đảo Java, thuộc Indonesia.

Sở dĩ cua ma cà rồng được ưa chuộng làm thú cưng là bởi kích thước nhỏ nhắn của chúng, chỉ lớn khoảng 3 cm và màu sắc bắt sáng như xanh tím và cam.

Cụ thể, loài Geosesarma dennerle có màu xanh tím rực rỡ ở càng và thân trước, lưng màu kem nhạt. Cua Geosesarma hagen lại có càng màu cam sáng, nổi bật so với màu đen của thân.

Trên thị trường, giá mỗi con cua ma cà rồng lên tới khoảng 25 USD (tương đương hơn 530K).

Nguồn: Tám Miền Tây t/h.

Cá sấu khổng lồ tấn công cua bé nhỏ và cái kết không thể 'đắng' hơn

Cuộc đối đầu gay cấn giữa con cá sấu to lớn và chú cua bùn bé nhỏ đã được anh Phil Lanoue, sống gần khu vực Murrells Inlet, Công viên Huntington Beach, tiểu bang South Carolina, Hoa Kỳ ghi lại.

Khi con cá sấu hung dữ đang đi săn mồi, nó phát hiện ra chú cua bùn đang nằm phơi nắng trên bùn và tiến đến tấn công. Rất bất ngờ là chú cua nhanh nhẹn tránh được cú đớp của con cá sấu và đồng thời sử dụng đôi càng của mình để đánh trả.

Chịu cú đánh trả bất ngờ vào mũi, con cá sấu đau đớn nhưng vẫn quyết tâm ăn thịt chú cua, tuy nhiên nó đã nhanh chóng trốn vào bùn trước sự bất lực của “sát thủ đầm lầy”.
ca-sau-khong-lo-nhan-cai-ket-dang-khi-tan-cong-cua-be-nho 1
Phát hiện con mồi đang nằm phơi nắng

ca-sau-khong-lo-nhan-cai-ket-dang-khi-tan-cong-cua-be-nho 2
Chú cua nhanh nhẹn chạy sang bên phải, tránh được cú đớp chết người
ca-sau-khong-lo-nhan-cai-ket-dang-khi-tan-cong-cua-be-nho
Không quên quay lại tấn công vào mũi con cá sấu hung dữ
ca-sau-khong-lo-nhan-cai-ket-dang-khi-tan-cong-cua-be-nho 4
Cú táp lần thứ hai vẫn không thể khuất phục chú cua nhanh nhẹn
ca-sau-khong-lo-nhan-cai-ket-dang-khi-tan-cong-cua-be-nho 5
Chú cua nhanh chóng rút xuống bùn trước sự bất lực của con cá sấu
Nguồn: Daily Mall - Vi sinh thủy sản EcoClean t/h.

[Cần Giuộc] Có hơn 25% diện tích nuôi tôm bị nhiễm bệnh


Tính đến nay, nông dân huyện Cần Giuộc đã thả 190 ha tôm năm 2018, tập trung ở các xã vùng hạ của huyện. Tuy nhiên, do tình hình thời tiết đang diễn biến phức tạp, chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm lớn nên có hơn 25% diện tích nuôi bị nhiễm bệnh đốm trắng, hoại tử gan tụy, đốm đen … Bệnh tập trung nhiều ở giai đoạn từ 20 đến 45 ngày tuổi.

Theo dự báo của các ngành chuyên môn huyện, dịch bệnh trên tôm sẽ còn diễn biến phức tạp; do đó bà con nông dân phải thận trọng, xử lý ao đầm đúng kỹ thuật, chọn con giống đảm bảo chất lượng trước khi thả nuôi vụ nuôi mới. Người nuôi tôm phải thường xuyên theo dõi tôm nuôi, tình hình thời tiết, kết quả quan trắc môi trường vùng nuôi trên địa bàn để có biện pháp xử lý kịp thời.

Theo: Phương Cảnh - Thất Huy Báo Long An

Thách thức thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ

Là một trong những thị trường trọng điểm cho xuất khẩu nông sản Việt Nam, nhưng Mỹ vẫn được dự báo là còn không ít khó khăn nhất là với ngành thủy sản trong năm 2018 này.

Tín hiệu khả quan

Thống kê của Bộ NN&PTNT, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy, sản tháng 2 năm 2018 ước 2,6 tỷ USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu 2 tháng đầu năm đạt 6,1 tỷ USD, tăng 30,2% so cùng kỳ năm 2017. Cụ thể, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước 3,3 tỷ USD, tăng 27,8%; thủy sản ước gần 1,2 tỷ USD, tăng 29,5%; các mặt hàng lâm sản chính ước 1,43 tỷ USD, tăng 28,5%; nhóm các mặt hàng khác đạt 237 triệu USD, tăng 107,1%.

Năm 2017, ngành nông nghiệp ghi nhận mức tăng trưởng khá với hơn 36 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu, tăng 13% so năm 2016,  trong đó  nhiều dấu mốc mới như xuất khẩu thủy sản lần đầu tiên vượt 8 tỷ USD; góp phần đưa thặng dư tuyệt đối của ngành nông nghiệp đạt con số 8,55 tỷ USD, tăng hơn 1,1 tỷ USD so năm 2016, với 10 nhóm hàng xuất khẩu trên 1 tỷ USD.

Theo Hiệp hội Chế biến Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc vẫn là 4 thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam, chiếm 55,3% tổng giá trị xuất khẩu.

Rào cản tại thị trường Mỹ

Tuy thuộc top những thị trường nhập khẩu hàng đầu sản phẩm thủy sản Việt Nam; nhưng xuất khẩu thủy sản nói chung sang thị trường Mỹ dự báo sẽ còn gặp nhiều khó khăn trong năm 2018.

Cụ thể là Chương trình giám sát hải sản nhập khẩu (SIMP) chống lại các hoạt động khai thác hải sản bất hợp pháp (IUU) và gian lận hải sản vào nước này được triển khai từ đầu năm 2018, sẽ khiến thủy sản xuất khẩu sang thị trường này bị kiểm soát nguồn gốc chặt hơn. Chương trình này được thiết lập dành cho 13 loài nằm trong nguy cơ bị đánh bắt trong đó có cá ngừ. Cá ngừ lại là sản phẩm cá biển chủ lực của Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ. Việc đưa ra những rào cản kể trên theo VASEP là để các nhà nhập khẩu Việt Nam nhận diện rõ những thách thức mà họ sẽ phải đối mặt trong hoạt động sản xuất chế biến và xuất khẩu của mình. Từ đó cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định một cách có trách nhiệm, bền vững đối với thị trường này.

Mặt khác, thủy sản vẫn là mặt hàng đang chịu nhiều áp lực nhất khi xuất khẩu sang Mỹ; bởi thị trường này liên tục đưa ra các rào cản về thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp. Đơn cử, tháng 9/2017, Bộ Thương mại Mỹ (USDC) công bố Kết luận sơ bộ đợt rà soát hành chính thuế chống bán phá giá lần thứ 13 (POR13) đối với sản phẩm cá tra - basa nhập khẩu từ Việt Nam. Theo đó, sau khi Mỹ tiến hành kiểm tra 100% lô hàng cá tra Việt Nam từ ngày 2/8/2017, USDC đã quyết định áp mức thuế 2,39 USD/kg, cao gấp 3 lần mức thuế suất riêng lẻ trong kỳ xem xét hành chính lần thứ 12. Xuất khẩu cá tra sang Mỹ năm 2018 có thể sẽ giảm khoảng 10%. Ngày 12/1/2018, Việt Nam đã đệ trình khiếu nại lên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), liên quan đến cách Mỹ đánh thuế mang tính trừng phạt các mặt hàng cá fillet Việt Nam vì cho rằng, Mỹ đã vi phạm các quy định của WTO trong cách áp thuế lên cá fillet Việt Nam. Mỹ sẽ có thời gian 60 ngày để giải quyết khiếu nại hoặc Việt Nam có thể yêu cầu WTO phân xử.

Để tháo gỡ những khó khăn trên, Bộ Công thương đang tích cực hỗ trợ các hiệp hội, doanh nghiệp cập nhật thông tin, ứng phó với các vụ việc hàng hóa xuất khẩu bị điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại, thông tin cảnh báo về cách phòng tránh, xử lý các vụ kiện phòng vệ thương mại nhằm đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp. Hiện, Bộ Công thương cũng đang phối hợp cùng Bộ NN&PTNT triển khai các chương trình hành động về an toàn thực phẩm, đặc biệt là tổ chức sản xuất, kinh doanh sản phẩm nông nghiệp, thực phẩm theo chuỗi liên kết giữa người sản xuất với doanh nghiệp và thị trường. Đồng thời, tăng cường nâng cao hoạt động thực thi Luật An toàn thực phẩm, Luật Thủy sản…

Tuy nhiên, cùng với các giải pháp tháo gỡ khó khăn thị trường của các cơ quan chức năng, doanh nghiệp cần có giải pháp nâng cao sức cạnh tranh và chất lượng sản phẩm, đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn thị trường nhằm giữ vững và mở rộng thị phần xuất khẩu.

Nguồn: Bảo Bình - Tạp chí Thủy sản Việt Nam.

Quản lý thức ăn: Yếu tố quan trọng cho vụ nuôi tôm thành công


Ngoài yếu tố tôm nuôi chết sớm do bệnh gan tuỵ cấp thì thức ăn là một nguyên nhân gây bất lợi cho tôm, dẫn đến vụ nuôi không thành công như mong đợi. Do đó, việc quản lý thức ăn phải được người nuôi đặt lên hàng đầu, nhất là trong thời kỳ dịch bệnh hiện nay.

Thức ăn cho tôm nuôi phải được cung cấp từ công ty có uy tín, chất lượng được kiểm chứng và người nuôi thành công trong nhiều năm qua. Việc vận chuyển thức ăn từ đại lý đến hộ nuôi có thể xảy ra xây xát, lủng bao hoặc ẩm ướt chắc chắn sẽ giảm chất lượng, gây hại cho sức khỏe tôm nuôi.

Anh Du Tô Sữa, ấp Hoà Trung, xã Lương Thế Trân, huyện Cái Nước, cho biết: “Vừa qua tôi sử dụng lô thức ăn 15 bao có hiện tượng như bị sấy lại, không còn mùi và cho tôm ăn trong khoảng 10 ngày thì có hiện tượng tôm tấp mé. Ðành phải thu hoạch sớm”.


Về quy trình nuôi, kỹ thuật nuôi, anh Sữa nhận định, khi cho ăn dư khoảng 3 cữ thì nước sẽ lên tảo màu xanh đen. Khi đó, một số trường hợp xử lý cắt tảo bằng các loại hoá chất để hạn chế sự nở hoa của tảo, đồng thời xử lý vi sinh, các loại thuốc trộn, khoáng tạt để tăng cường sức khoẻ cho tôm, ổn định môi trường ao nuôi. Những biện pháp này rất tốn kém và hiệu quả chỉ trong giai đoạn ngắn mà không ổn định được đến hết vụ nuôi.

Thạc sĩ Ðỗ Văn Hoàng, Phân viện Nghiên cứu thuỷ sản Minh Hải, cho biết: “Có rất nhiều loại đạm được các công ty thức ăn công bố nhưng tôm chỉ hấp thu được những loại đạm là axitamin dễ tiêu, còn lại tôm không hấp thu được sẽ thải ra môi trường bên ngoài”.

Cũng theo Thạc sĩ Ðỗ Văn Hoàng, từ kết quả nguyên cứu của nhiều nhà khoa học, tôm chỉ hấp thu được khoảng 17% đạm có trong thức ăn. Tuỳ theo sức khoẻ của tôm trong thời điểm khác nhau và tuỳ theo hàm lượng đạm (axitamin) dễ tiêu có trong thức ăn mà tôm hấp thụ được cũng khác nhau trong ngày. Bên cạnh đó, hiện nay việc kiểm tra cũng như quản lý chất lượng thức ăn – hàm lượng đạm trong thức ăn mà các công ty thức ăn công bố trên bao bì là rất khó khăn.

Lượng đạm được tôm thải ra môi trường hằng ngày cùng với đạm trực tiếp từ thức ăn khi người nuôi tôm cho ăn dư thừa được tích tụ lại dưới đáy ao. Sau một thời gian, lượng đạm này phân huỷ, sinh ra khí độc NH3 và H2S. Lượng khí độc này được người nuôi xử lý bằng các loại thuốc thuỷ sản và phải định kỳ để ổn định nhưng rất tốn kém. Cùng với lượng đạm dư thừa trực tiếp gây nở hoa cho tảo và khi tảo tàn sẽ vào mang tôm gây khó khăn cho tôm hô hấp, dẫn đến tôm chết đáy, người nuôi thu hoạch sớm trong giai đoạn 1-2 tháng tuổi như đã qua.

Do đó, để vụ nuôi thành công, người nuôi phải sử dụng vi sinh chất lượng xử lý đáy định kỳ; phải quản lý, cho tôm ăn theo phương châm từ đủ đến thiếu lượng thức ăn cho tôm vào mỗi lần cho ăn. Phải căn cứ vào trọng lượng tôm hiện tại cùng với số lượng tôm thả nuôi để xác định lượng thức ăn cho mỗi lần ăn. Nếu thực hiện tốt việc quản lý thức ăn trên thì chi phí cho vụ nuôi sẽ giảm và bớt rủi ro, giúp vụ nuôi thành công cao hơn…

Theo Diệu Lữ, Báo Cà Mau, 09/11/2014

Tiêu chuẩn cơ sở phát hiện virus đốm trắng

Tiêu chuẩn này được Cục Thú y ban hành vào ngày 23/2/2018, tại Quyết định số 117/QĐ-TY-TS ban hành Tiêu chuẩn cơ sở.


Cụ thể, ban hành Tiêu chuẩn cơ sở quy trình phát hiện virus gây hội chứng đốm trắng ở tôm bằng kỹ thuật Real-time PCR; Ký hiệu: TCCS 01:2018/TY-TS. Áp dụng tại tất cả các phòng thử nghiệm của các đơn vị trực thuộc Cục Thú y. Chi cục Thú y/Chi cục Chăn nuôi và Thú y và các đơn vị liên quan căn cứ điều kiện phòng thử nghiệm của đơn vị tham khảo, áp dụng Tiêu chuẩn cơ sở này cho phù hợp, hiệu quả. Tiêu chuẩn này thay thế Tiêu chuẩn cơ sở quy trình phát hiện virus gây bệnh đốm trắng ở tôm bằng kỹ thuật Real-time (Ký hiệu: TCCS 01:2014/TY-TS) tại Quyết định số 934/QĐ-TY-TS ngày 12/12/2014 của Cục trưởng Cục Thú y. Quyết định này có hiệu lực thi hành từ ngày ký.

Theo: Bảo Hân.

'Lênh đênh' nghề nuôi cá bớp

“Ngày biển lặng đã đành, phải khi sóng to gió lớn, ngồi một chỗ còn khó, huống hồ đi lại để chăm sóc cá. Nhọc, nhưng năm nào cá bán được giá thì sống khỏe” - Chị Phan Thị Kim Sang, một trong những người đầu tiên đến đảo Hòn Chuối nuôi cá bớp chia sẻ.

Những bè cá bớp. Ảnh minh họa.

Đổi đời nhờ cá bớp

Đến đảo Hòn Chuối (huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau), tôi thực sự bất ngờ khi được thưởng thức các món ăn từ cá bớp do cán bộ, chiến sĩ (CBCS) Đồn Biên phòng Hòn Chuối chế biến. Miếng cá nạc, giòn thơm, vị ngọt tự nhiên không giống với món ăn nào khác. Đĩa lòng cá hấp dẫn với những miếng dạ dày giòn sần sật, trứng cá, gan cá thơm, mềm và không có mùi tanh. Thú vị hơn cả, khi các chiến sĩ cho biết, đây là sản phẩm cá bớp do người dân nuôi ở chính đảo Hòn Chuối. Không chỉ là thực phẩm bổ dưỡng, cá bớp còn đang giúp nhiều hộ dân vốn ăn bữa nay lo bữa mai, vươn lên làm giàu.

Theo Thiếu tá Nguyễn Văn Hệ, Phó Đồn trưởng Đồn Biên phòng Hòn Chuối, năm 2010, một số hộ dân ở thị trấn Sông Đốc, thậm chí ở tận Kiên Giang đã ra đảo Hòn Chuối nuôi loài cá này. Không ngờ, vùng biển quanh đảo lại rất phù hợp với cá bớp. Cá lớn nhanh, ít dịch bệnh, chất lượng thịt cá thơm ngon đặc biệt. Từ đây, nhiều người dân ở đảo Hòn Chuối cũng học hỏi kinh nghiệm, làm hộc để nuôi cá. Một số người còn bỏ cả nghề đi biển để tập trung nuôi cá bớp. Có thời điểm, quanh đảo Hòn Chuối có hơn 50 hộ dân nuôi cá. Với thời gian nuôi khoảng 6 – 7 tháng, cá đạt trung bình 8-10kg thì xuất bán, mỗi hộc cá lời từ 30 – 50 triệu đồng.

Bị hấp dẫn bởi các món ăn chế biến từ cá bớp, lại nghe thông tin cá bớp đang có giá bán tới 160.000 đồng/kg mà không có để bán, nên sáng hôm sau, tôi háo hức theo chân CBCS Đồn Biên phòng Hòn Chuối đến với những bè nuôi cá bớp quanh đảo. Đón chúng tôi lên bè cá bằng nụ cười thân thiện, chị Phan Thị Kim Sang và chồng là anh Lê Văn Út, cho biết: “Vợ chồng tôi là một trong số hộ đầu tiên ra đảo Hòn Chuối nuôi cá. Đến nay, gia đình đã có 20 hộc cá”.

Theo cách tính của chị Sang, nếu trung bình mỗi hộc nuôi khoảng 200 con, thì nguyên tiền cá giống đã gần 30 triệu đồng/hộc. “Đợt vừa rồi, gia đình mua 1.500 con giống, với số tiền hơn 200 triệu đồng. Mang về đến bè, cá chết bớt, còn chưa đến 1.200 con”. Cũng theo chị Sang, sở dĩ, cá giống đắt như vậy bởi đây hoàn toàn là cá tự nhiên, được các ghe lớn đánh bắt ở vùng khơi mang về. Quá trình vận chuyển về đến đảo, một số con bị chết.

Vừa dẫn tôi đi xem những hộc cá nối dài, bên trong là vô số những con cá to bằng cổ tay, chị Sang vừa kể: “Cá bớp được nuôi hoàn toàn bằng cá cào, cá lưới bao, ngoài ra không cho ăn thêm bất kỳ thức ăn nào khác. Hiện, 1.500 con cá nhà tôi tiêu tốn 300kg thức ăn/ngày, tương đương 2 triệu đồng. Thời điểm gia đình nuôi nhiều nhất là 7.000 con, chi phí thức ăn hết mười mấy triệu đồng/ngày. Cái hay là cá bớp có thể nhịn ăn vài ngày vẫn sống khỏe”.

Năm 2017, khi cá bớp đạt giá cao nhất từ trước đến nay (160.000 đồng/kg), không ít hộ nuôi cá bớp ở Hòn Chuối bội thu hơn cả mong đợi. Ngoài những gia đình có thu nhập xấp xỉ tiền tỉ như gia đình anh chị Sang -  Út, các hộ khác như ông Tư Phương,  Kim Ngọc Tồn, Kim Ngọc Tuấn, Kim Ngọc Của... đều có thu nhập từ vài chục đến vài trăm triệu đồng.

Bám biển, trông cá, nuôi hi vọng

Có vượt biển đến với các bè cá, nghe người nuôi cá bớp kể chuyện mới hay, để có những lứa cá chất lượng, năng suất cao, người nuôi cá cực khổ trăm bề. “Sóng yên thì khỏe; sóng to thì cực, các hộc cá vì bị giật, mà di chuyển để chăm sóc cá gặp rất nhiều khó khăn” - Chị Sang chia sẻ trong lúc cố gắng giữ để tôi có thể đứng vững được trên các hộc cá liên tục tròng trành bởi sóng gió. Làm việc cách đất liền cả 3 giờ chạy tàu, cuộc sống của những người nuôi cá bớp ở Hòn Chuối gói gọn trên những con tàu, 24 giờ mỗi ngày là 24 giờ lênh đênh cùng sóng gió. Tổ ấm của họ chính là những con tàu với không chỉ chỗ ngủ, bếp nấu ăn, mà còn có cả ti vi, máy phát điện, dàn năng lượng mặt trời.

Từ thị trấn Sông Đốc, anh Võ Văn Phong ra đảo Hòn Chuối nuôi cá bớp đã được 6 năm. Một mình xoay xở với 6 hộc cá, vui buồn ra sao, anh đã nếm đủ. “Cá khỏe không sao, thi thoảng cá bệnh, lo muốn chết vì bao nhiêu vốn liếng đổ cả vào đây, chỉ riêng mỗi điều trị bệnh lở loét thân cá bớp đã tốn biết bao nhiêu là chi phí...” – Anh cho hay. Minh chứng cho lời anh Phong nói là câu chuyện về hơn chục hộ dân vay tiền để nuôi cá bớp đúng năm bị ảnh hưởng từ vụ ô nhiễm môi trường ở Formosa Hà Tĩnh (năm 2016), cá bán không ai mua, người nuôi điêu đứng, nhiều hộ vay tiền để đầu tư nuôi cá phút chốc trắng tay.

Vẫn còn nhớ như in nỗi buồn của người nuôi cá bớp khi ấy, ông Tư Phương, Tổ trưởng Tổ tự quản ở đảo Hòn Chuối, cũng là một trong những người đầu tiên nuôi cá bớp ở đây cho hay: “Năm 2016, có đến hơn chục hộ thất bại vì nuôi cá bớp đã bỏ lại nhà cửa trên đảo để đi vào Bình Dương mưu sinh, kiếm tiền trả nợ. Năm nay, gia đình ông có 10 hộc cá, nhưng ông vẫn chưa thả cá giống hết. Vừa thả, vừa nghe ngóng xem sao”.

Ngồi trò chuyện cùng tôi trước cửa căn nhà dựng trên ghềnh đá, trong tiếng sóng xô, bọt tung trắng xóa..., ông Tư Phương trầm ngâm: “Những năm đầu nuôi cá bớp, người nuôi chỉ lo xoay xở tiền để đầu tư mà ít phải lo lắng về dịch bệnh, nhưng giờ đây, hiện tượng cá bị mù mắt, bỏ ăn, hay cá bị sứa cào lở da xảy ra ngày càng nhiều. Mới đây, người nuôi cá bớp ở Hòn Chuối đã “cầu cứu” Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Cà Mau hỗ trợ, đưa các chuyên gia nuôi trồng thủy sản ra đảo khảo sát tìm nguyên nhân và đưa ra giải pháp khắc phục”. Theo ông Phương, rất có thể, tình trạng cá bị bệnh mù mắt là do nguồn nước bị ô nhiễm vì số lượng hộ nuôi cá tăng lên so với mấy năm trước, mật độ các bè cá cũng dày hơn. Bên cạnh đó, việc sứa biển bám vào các hộc nuôi cũng có thể là nguyên nhân khiến cá bị ghẻ lở, mù mắt.

Như nhiều công việc mưu sinh khác, việc nuôi cá bớp ở Hòn Chuối, nói theo cách của người dân nơi đây, cũng còn tùy hên-xui. Vậy nên, ngày lại ngày, những người nuôi cá bớp vẫn miệt mài chia sẻ cho nhau kinh nghiệm, chia cho nhau cả cân gạo, mớ rau trong ngày biển động, gom góp hi vọng về những lứa cá năng suất, được giá.

Theo: Mai Hoàng - Báo Biên Phòng / Tám Miền Tây t/h.


So sánh cá hồi nuôi và cá hồi tự nhiên: loại nào tốt hơn?

Cá hồi là một trong những món ăn bổ dưỡng, khoái khẩu của nhiều người nhưng bạn đã hiểu hết về các loại cá hồi chưa?

Với hàm lượng Omega dồi dào, thúc đẩy hoạt động não bộ nên cá hồi trở thành một trong những loại cá có lợi cho sức khỏe và được nhiều người ưa thích.

Cá hồi nuôi và cá hồi tự nhiên, loại nào tốt hơn?
Trên thị trường thường tồn tại hai loại cá hồi là: cá hồi tự nhiên và cá hồi nuôi. Vậy loại cá nào mới thực sự tốt cho sức khỏe bạn? Phải chăng cá hồi nuôi và cá hồi tự nhiên hoàn toàn giống nhau. Bài viết sau sẽ đưa đến cho bạn câu trả lời.

Cá hồi tự nhiên và cá hồi nuôi - cá nào tốt hơn?

Cùng đặt cá hồi tự nhiên và cá hồi nuôi lên bàn cân, ta có thể thấy ngay sự khác biệt về độ "chất" của từng loại cá.

Thịt cá hồi nuôi (bên trái) và thịt cá hồi tự nhiên (bên phải).
Cá hồi đánh bắt tự nhiên có phần thịt màu đỏ cam tươi cùng những "thớ" chất béo trắng nạc, nhỏ li ti có được là nhờ các loại sinh vật biển như tôm cua, côn trùng tự nhiên, tảo đỏ... mà cá hồi đã tiêu thụ trong lòng đại dương.

Bởi vậy, hương vị của cá hồi tự nhiên thơm, thịt chắc, thành phần dinh dưỡng ở cá hồi tự nhiên cũng vô cùng dồi dào: bao gồm chất béo, khoáng chất, vitamin và chất chống oxy hóa.

Trong khi đó, cá hồi nuôi thường có màu thịt nhợt nhạt hơn, cùng "dải" mỡ màu trắng đục, to hơn. Lý do là bởi cá hồi nuôi được "quây" trong những lồng hẹp và được nuôi dưỡng bằng chế độ ăn từ sản phẩm ngũ cốc, đôi lúc là nội tạng động vật... nên phần thịt có phần nhạt hơn.

Bên cạnh đó, khi có dấu hiệu bị bệnh, cá hồi nuôi được bổ sung thuốc kháng sinh, thuốc diệt nấm... để giúp ngăn ngừa bệnh và ký sinh trùng.

Ngoài ra, để cá hồi nuôi có màu hồng, người nuôi còn bổ sung thêm chất tạo màu nhân tạo để chúng có màu giống như cá hồi tự nhiên. Do đó, cá nuôi thường chứa lượng dinh dưỡng, chất béo và các axit béo Omega-3 ít hơn.

Bảng so sánh dưới đây sẽ giúp bạn có cái nhìn rõ hơn về chất dinh dưỡng mà cá hồi nuôi và cá hồi tự nhiên sở hữu.

Cách phân biệt cá hồi nuôi và cá hồi tự nhiên

Ăn cá hồi nuôi cần chú ý

Cần phải khẳng định rằng, các loại dịch bệnh và ký sinh trùng có trong đại dương tương đối ít nhưng chúng lại xuất hiện tràn lan trong các vùng chăn nuôi thủy sản.

Do đó, để có thể tồn tại, cá nuôi thường được tiêm vacxin hoặc các loại kháng sinh để không bị nhiễm bệnh.

Cá hồi nuôi tích tụ nhiều chất không tốt cho cơ thể

Telegraph và Seattle Times đưa tin, một nghiên cứu ở Mỹ mới đây đã phát hiện cá hồi được đánh bắt ở Seattle bị nhiễm khuẩn từ nguồn nước chứa 81 loại thuốc, trong đó có thuốc kháng sinh và thuốc chống trầm cảm... Điều này cho thấy, nếu cá sống trong nguồn nước không đảm bảo thì rất dễ bị nhiễm các chất bẩn.

Năm 2004, trên trang web Sức khỏe của trường Đại học Harvard (Mỹ) công bố tìm thấy hóa chất tổng hợp Polychlorinated biphenyls (PCBs) trong cá hồi nuôi. PCBs có thể ngấm dần vào đất, nguồn nước hoặc di chuyển trong không khí và dễ dàng "tích tụ" trong chất béo, vì thế, cá càng béo như cá hồi thì càng có nguy cơ chứa nhiều chất độc hại.

Nghiên cứu sâu hơn, các chuyên gia phát hiện lượng mỡ ở cá hồi nuôi còn cao gấp 2 lần cá hồi tự nhiên, hàm lượng chất gây ung thư PCBs cao hơn 16 lần so với cá hồi tự nhiên, 4 lần so với thịt bò nuôi và 3,5 lần so với các loại hải sản khác. Và hầu hết các loại chất độc này nằm trong mỡ cá.

Như nói ở trên, cá hồi nuôi thường được ăn thêm chất tạo màu thịt để làm tăng độ hấp dẫn. Nhưng tiếc rằng, gần đây, một vài nghiên cứu cho thấy, chất tạo màu này có khả năng gây ung thư.

Bởi vậy, các chuyên gia khuyến cáo, nếu thường xuyên ăn cá hồi, bạn hãy tinh tế chọn cá hồi tự nhiên hoặc cá hồi được nuôi bởi các công ty uy tín để tránh những nguy hại cho sức khỏe về sau.

Bởi, những người THƯỜNG XUYÊN ăn cá hồi nuôi bị nhiễm bẩn có thể có nguy cơ mắc chứng đãng trí hay quên, nếu lâu dài có thể dẫn tới mất trí. Đó là do PCBs hay chất tạo màu là loại hóa chất tổng hợp gây ô nhiễm nước - chứa nhiều độc tố gây hại cho sức khỏe.

Nguồn: Tổng hợp.

Mách nhỏ bà con cách đánh giá chất lượng dinh dưỡng ao nuôi bằng cách quan sát màu nước


Trong nuôi trồng thủy sản ta chú ý đến màu giả của nước nhiều hơn, vì qua đó có thể đánh giá sơ bộ môi trường nước đó giàu hay nghèo dinh dưỡng.

Có thể nói chưa bao giờ nuôi trồng thủy sản lại chứng tỏ được giá trị và tiềm năng to lớn về kinh tế trong nền nông nghiệp Việt Nam như hiện nay.

Với bất cứ quy mô nào, từ nuôi thâm canh với hình thức trang trại hay xen canh, quảng canh với hình thức hộ gia đình thì nuôi thủy sản vẫn mang lại lợi nhuận gấp nhiều lần so với trồng lúa trên cùng một diện tích. Điều này hoàn toàn đúng với câu nói “muốn giàu nuôi cá” được ông cha ta truyền miệng từ bao đời nay.

Tuy nhiên, lợi nhuận lớn cũng đồng nghĩa với rủi ro cao, đặc biệt là trong hoàn cảnh nghề nuôi thủy sản của nước ta chưa thật sự đạt tới trình độ tiên tiến và hiện đại. Các hộ nuôi nhỏ lẻ vẫn chủ yếu dựa trên kinh nghiệm của bản thân là chính.

Việc đầu tư để mua sắm các trang thiết bị như các bộ kit kiểm tra môi trường hay kính hiển vi được một số người nuôi xem như là một khoản chi phí không cần thiết. Chất lượng nước sẽ được đánh giá chủ yếu bằng cách quan sát màu nước trong ao nuôi, đây là một biện pháp đơn giản, dễ thực hiện.

Tuy nhiên, nếu không có kiến thức đầy đủ về màu nước trong ao nuôi thủy sản, người nuôi cũng sẽ dễ bị nhầm lẫn và đánh giá không đúng về hiện trạng chất lượng nước.

>> Có thể bạn đang cần: Cách khắc phục nước ao nuôi tôm bị mất màu trong tháng nuôi đầu tiên

Trên thực tế, nước trong ao nuôi thường có màu do sự xuất hiện của các hợp chất hữu cơ hòa tan hay không hòa tan, hay do sự phát triển của tảo. Có thể chia màu nước là 2 dạng, màu thực và màu giả. Màu thực của nước là màu do các hợp chất hòa tan trong nước gây ra, màu giả là màu của các hợp chất không hòa tan. Trong nuôi thủy sản ta chú ý đến màu giả của nước nhiều hơn, vì qua đó có thể đánh giá sơ bộ môi trường nước đó giàu hay nghèo dinh dưỡng. Trong ao nuôi thường có các màu sau:

Nước màu xanh nhạt (đọt chuối non)

Màu xanh nhạt do sự phát triển của tảo lục (chlorophyta), loài tảo này thường phát triển mạnh trong môi trường nước ngọt hoặc nước lợ nhạt (dưới 10 phần nghìn).

Đây cũng là màu nước thích hợp nhất để nuôi thủy sản, tảo lục ngoài việc đóng vai trò quan trọng trong chuỗi thức ăn, còn có tác dụng ổn định các yếu tố thủy lý hóa trong ao, hấp thu các chất hữu cơ thông qua đó làm giảm lượng khí độc trong ao. Người nuôi nên cố gắng duy trì màu nước xanh nhạt, như vậy các loài thủy sản sẽ phát triển tốt hơn.

Nước màu xanh đậm (xanh rêu)

Nước có màu xanh đậm là do sự phát triển của tảo lam (Cyanophyta), loài tảo này phát triển mạnh cả trong môi trường nước ngọt, lợ, mặn.

Nếu nước trong ao nuôi có màu này thì cần có biện pháp làm giảm lượng tảo, vì đây là loại tảo không tốt cho các loài thủy sản. Hơn nữa, nếu tảo lam phát triển quá mức có thể tiết ra chất độc làm chết cá. Bên cạnh đó, còn có thể gây thiếu oxy về đêm do tảo hô hấp quá mức.

Màu vàng nâu (màu nước trà)

Nước có màu vàng nâu do sự phát triển của tảo silic (Bacillariophyta), loài tảo này thường phát triển mạnh ở môi trường nước lợ, mặn vào đầu vụ nuôi. Đây là màu nước thích hợp nhất để nuôi các loài thủy sản nước lợ, mặn.


Màu vàng cam (màu gỉ sắt)

Màu này thường xuất hiện ở các ao nuôi mới đào trên vùng đất phèn. Màu cam là do đất phèn tiềm tàng (FeS2) bị oxy hóa tạo thành các váng sắt.

Đối với ao có màu nước vàng cam cần có biện pháp khử phèn trước khi thả nuôi, có thể sử dụng vôi nông nghiệp hay bơm, xả nước nhiều lần để rửa trôi lượng phèn trong ao. Đối với các ao đang nuôi thì cần rải thêm vôi trên bờ ao để tránh hiện tượng pH giảm đột ngột khi trời mưa.

Màu đỏ gạch (màu đất đỏ)

Nước có nhiều phù sa do đất cát bị xói mòn từ vùng thượng nguồn được dòng nước mang đến vùng hạ lưu. Trong ao nuôi thủy sản ít khi có màu nước như vậy, tuy nhiên vùng ĐBSCL hay gặp nước đỏ gạch trên các con kênh, sông khi chuẩn bị sắp có lũ về.

Người nuôi cần lưu ý không nên cấp nước vào ao lúc này, vì lượng phù sa nhiều sẽ làm tôm, cá khó hô hấp và giảm khả năng bắt mồi. Tốt nhất là nên cấp nước vào ao lắng trước khi cung cấp cho các ao đang nuôi.

Màu nâu đen

Nước có màu nâu đen do trong nước có chứa nhiều vật chất hữu cơ. Màu nước này thường thấy ở các ao nuôi có hệ thống cấp, thoát nước không tốt, trong quá trình nuôi không quản lý tốt môi trường, cho ăn dư thừa nhiều sẽ dể làm nước ao nuôi có màu nâu đen. Trường hợp này hàm lượng oxy hòa tan rất thấp, vì vậy cần có biện pháp xử lý ngay.

Có thể thay nước nhiều lần đến khi hết màu nâu đen, hoặc kết hợp sử dụng thêm các loại chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản, hóa chất có thể hấp thu khí độc. Bên cạnh đó, nếu thấy tôm, cá có hiện tượng thiếu oxy cần sử dụng quạt đảo nước hoặc các loại hóa chất cung cấp oxy tức thời, nhằm làm giảm đến mức thấp nhất thiệt hại.

Quan sát màu nước trong ao nuôi là phương pháp dễ thực hiện và mang lại hiệu quả cao. Nếu người nuôi có đầy đủ kiến thức về các loại màu nước sẽ có thể đánh giá chính xác được hiện trạng chất lượng nước.

Thông qua đó sẽ có những biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho tôm, cá sinh trưởng và phát triển. Có như vậy, chi phí đầu vào sẽ giảm thấp, lợi nhuận từ việc nuôi thủy sản cũng sẽ tăng lên đáng kể.

Nguồn: Lâm Trọng Nghĩa (Báo NNVN) - Tám Miền Tây t/h.

Một số bệnh thường gặp trong nuôi cá chẽm và cách phòng trị

(*) Bài viết được trích từ Ths. Trần Quang Khánh Vân - Khoa Thủy Sản, ĐH Nông Lâm Huế

Những năm gần đây nghề nuôi cá biển nói chung, nghề nuôi cá chẽm nói riêng đã có những bước phát triển mạnh. Cá chẽm được quan tâm nghiên cứu để nuôi thương phẩm nhằm thực hiện phương hướng đa dạng hóa đối tượng nuôi, hình thức nuôi, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế. Sự quan tâm đó trở nên cấp thiết hơn khi trong những năm gần đây một số đối tượng truyền thống của nước ta như tôm sú, tôm hùm và nhiều đối tượng kinh tế khác thường xuyên bị dịch bệnh đe dọa gây thiệt hại lớn cho người nuôi. Việc đưa các loài cá biển có giá trị kinh tế như cá chẽm vào thành phần loài nuôi và đa dạng hình thức nuôi sẽ là giải pháp thay thế hiệu quả, góp phần hạn chế nhưng rủi ro về kinh tế, ổn định, hiệu quả trong sử dụng diện tích mặt nước và góp phần cải tạo, cân bằng sinh thái môi trường ao nuôi.

Tuy nhiên, do việc mở rộng diện tích nuôi một cách bừa bãi, chưa có sự quy hoạch, phân vùng hợp lý, tư tưởng chủ quan, nóng vội, làm theo cảm tính, tự phát, xem nhẹ các vấn đề kỹ thuật, thời vụ… dẫn đến hậu quả  môi trường nước nuôi bị ô nhiễm nghiêm trọng, đồng thời do chịu tác động lớn của biến đổi khí hậu nên tình hình dịch bệnh trên cá chẽm xảy ra ngày càng nghiêm trọng.

Một số bệnh thường gặp trong nuôi cá chẽm, nguyên nhân và dấu hiệu bệnh lý

Cá mắc bệnh từ các nguyên nhân chủ yếu sau, thứ nhất nguồn giống thả nuôi chưa được kiểm tra chất lượng, giống mang sẵn mầm bệnh nhưng chưa được xử lý diệt trùng. Khi cá thả xuống nuôi một thời gian gặp thời tiết thay đổi thuận lợi mầm bệnh sẽ phát triển, kết hợp sức khỏe cá còn non nên bệnh càng dễ dàng phát sinh. Tiếp đến là do nguồn nước, vì chủ yếu là nuôi dựa vào tự nhiên không có biện pháp xử lý, nguồn nước kém chất lượng do bị ô nhiễm hóa chất độc, vi khuẩn, vi rút, hàm lượng chất hữu cơ cao, hàm lượng chất khí độc tích tụ… Sự xâm nhập của nước ngọt vào các mùa mưa, nước sứa độc là một trong những  nguyên nhân gây chết cá chẽm nuôi… Ngoài ra, mật độ cao cũng là nguyên nhân phổ biến gây chết cá. Cá được nuôi với mật độ cao dễ bị xây xát do va chạm, vì vậy sẽ tạo điều kiện cho tác nhân cơ hội xâm nhập, mặt khác khi  lượng chất thải ra môi trường cao, lượng oxy hòa tan thấp… sẽ gây ngộ độc cho cá. Thời tiết biến động thất thường cũng là nguyên nhân gây chết cá, đặc biệt là yếu tố nhiệt độ nước thay đổi đột ngột vào tháng 12 đến tháng 2 (có thể xuống thấp đến 18 - 22ºC)  hoặc nhiệt độ tăng cao vào tháng 3 đến tháng 5 (lên đến 35 - 39°C)  đều làm cá bị sốc,  bỏ ăn,  yếu, tạo điều kiện cho sinh vật gây bệnh  phát triển, làm  cá dễ dàng mắc bệnh.

STT
Bệnh
Tác nhân
gây bệnh
Dấu hiệu bệnh lý
1
Bệnh mòn vây và cụt đuôi.
Vi khuẩn

Cá có màu sắc nhợt nhạt, hoạt động kém, các vây bị ăn mòn đặc biệt là vây đuôi.
2
Bệnh lymphocystic
(bệnh u sần)
Virus
Cá bệnh xuất hiện các u lồi màu trắng, nâu hay hồng tại  một vị trí bất kỳ trên bề mặt cơ thể cá.
3
Bệnh lở loét, xuất huyết
Vi khuẩn
Cá kém ăn hoặc  bỏ ăn, bơi lội chậm chạp, bơi trên tầng nước mặt, xuất huyết trên thân và các gốc vây, mắt lồi.
4
Bệnh hoại tử thần kinh
Virus
Cá bơi lòng vòng, không có định hướng.
5
Bệnh đỉa cá
Đỉa cá
Đĩa cá ký sinh ở da, vây, mang và xoang miệng của cá để hút máu, gây tổn thương tại nơi chúng ký sinh.
6
Bệnh trùng bánh xe
Trùng bánh xe
Ký sinh trùng này thường bám ở da,vây, hốc mũi và mang. Khi cá mới mắc bệnh, mình cá có lớp nhớt màu hơi trắng đục. Bệnh nặng cá có màu sắc nhợt nhạt,  tiết nhầy trắng đục trên thân, mang, vây xơ mòn.
Cá bệnh thường nổi đầu và thích tập trung nơi nước chảy.
Thích cọ mình vào thành bể hoặc cây cỏ và cảm giác như ngứa ngáy.
7
Bệnh môi trường
Môi trường
Cá nổi đầu, bơi lờ đờ, kém ăn

Cá chẽm bị lở loét. Ảnh minh họa.

Một số biện pháp phòng và trị bệnh trên cá chẽm nuôi ao và nuôi lồng


# Phòng bệnh trên cá chẽm:

- Chọn vị trí ao nuôi và vị trí đặt lồng thích hợp
- Cải tạo ao triệt để
- Chọn giống tốt, giống phải được qua kiểm dịch
- Thức ăn đảm bảo chất lượng tốt, cho ăn đầy đủ
- Quản lý tốt các yếu tố môi trường ao nuôi
- Thường xuyên tắm cá bằng nước ngọt

# Trị bệnh xuất huyết, lở loét do tác nhân vi khuẩn.

Định kỳ 5-7 ngày tắm nước ngọt cho cá với 1 trong 4 loại thuốc, hóa chất sau: Formol 50-100ppm, KmnO4 2-5ppm, CuSO4 2-4ppm và Oxytetracylin 5-10ppm.

Hình 2. Cá chẽm bị đĩa bám ở vòm miệng (trái),  cá chẽm bị  mòn vây, cụt đuôi (phải)

Nguồn: UV-Việt Nam - Tám Miền Tây t/h..


Chế phẩm vi sinh trong nuôi trồng thủy sản: Lợi ích và những điều bà con cần lưu ý


Sử dụng chế phẩm vi sinh trong nuôi thủy sản là hướng đi có ý nghĩa thực tiễn nhằm bảo vệ môi trường và đảm bảo hiệu quả sản xuất. Từ đó, góp phần đưa nghề nuôi thủy sản phát triển bền vững.

Chế phẩm vi sinh trong nuôi trồng thủy sản là gì?

Về hình thức, men vi sinh có 02 dạng, dạng nước và dạng bột (hay dạng viên). Bình thường, dạng bột có mật độ vi khuẩn có lợi cao hơn so với dạng nước.

Về chủng loại, men vi sinh có 02 loại, loại dùng để xử lý môi trường (loài vi khuẩn chính là  Bacillus sp.) và loại trộn vào thức ăn (loài vi khuẩn chính là Lactobacillus).

Hai thành phần chính của men vi sinh là vi khuẩn có lợi và các chất dinh dưỡng để nuôi vi khuẩn. Vi khuẩn có lợi được phân lập từ nhiều nguồn khác nhau. Chúng gồm các loài như Bacillus sp., Nitrosomonas, Nitrobacter... Chất dinh dưỡng là các loại như đường, muối canxi, muối magiê…

Các lợi ích mang lại khi sử dụng men vi sinh:

(1) Làm ổn định chất lượng nước và nền đáy trong ao nuôi tôm, cá.
(2) Nâng cao sức khoẻ và sức đề kháng của tôm, cá.
(3) Giảm thiểu ô nhiễm môi trường ao nuôi và xung quanh do nuôi thuỷ sản gây nên.
(4) Nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn.

Các lợi ích đạt được như trên là do hoạt động tích cực của vi khuẩn qua một hay nhiều cơ chế tác động:

(1) Cạnh tranh mạnh mẽ chất dinh dưỡng, năng lượng và giá thể với các loài vi khuẩn có hại khác và tảo độc.
(2) Chuyển hoá các chất hữu cơ như thức ăn dư, xác tảo, cặn bã thành CO2 và nước; chuyển các khí độc như NH3, NO2 thành các chất không độc như NH4+, NO3-.
(3) Hạn chế vi khuẩn có hại trong đường ruột và giúp chuyển hoá hiệu quả thức ăn.
(4) Tiết ra một số chất kháng sinh, enzyme để kìm hãm hay tiêu diệt mầm bệnh.

Để men vi sinh phát huy hiệu quả cao, người nuôi thủy sản phải tuân thủ một số nguyên tắc dùng sau đây:

- Hoà loãng men vi sinh bằng nước trong ao nuôi, cho vào xô, thau, sau đó sục khí 4 - 5 giờ đến khi men có mùi chua hay pH giảm thì đem bón.

- Định kỳ dùng trong quá trình nuôi. Thông thường 7 - 10 ngày/lần đối với loại xử lý môi trường và luân phiên sử dụng 5 ngày, sau đó ngưng 5 ngày đối với loại trộn vào thức ăn. Sử dụng cùng lúc với bón phân gây màu nước hay sau khi nước đã lên màu.

- Liều lượng dùng phải theo đúng theo đề nghị của nhà sản xuất.

- Khi môi trường ao nuôi có dấu hiệu hay đang suy giảm chất lượng như hàm lượng khí độc cao (NH3, H2S, NO2…), nước nhiều cặn bã, nước phát sáng thì men vi sinh được sử dụng sớm hơn so với thường ngày với liều lượng tăng gấp 2 lần so với đề nghị để xử lý khí độc trong ao nuôi tôm.

- Không được sử dụng men vi sinh cùng với các loại hoá chất có tính diệt khuẩn như BKC, thuốc tím, Chlorine, i-ốt, kháng sinh. Đồng thời, không được sử dụng men vi sinh khi các chất trên đang hiện diện trong môi trường nước hay trong thân tôm, cá nuôi.

- Trước khi bón men vi sinh cần cải thiện môi trường ao nuôi bằng các biện pháp như thay nước, bón vôi nâng pH lên 7,5 - 8,5, bón vôi + Dolomite + Khoáng nâng cao độ kiềm.

- Men vi sinh sẽ có hiệu quả sau khi sử dụng 2 - 4 ngày, thể hiện qua màu nước và các chỉ tiêu môi trường.


Một số điều lưu ý về chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản

Trong những năm gần đây, việc ứng dụng các giải pháp kỹ thuật thích hợp vào nuôi thủy sản ngày càng phát triển tích cực, đặc biệt là việc sử dụng các loại chế phẩm sinh học vì giúp nâng cao sức tăng trưởng, đề kháng của tôm, cá và hạn chế việc lưu tồn mầm bệnh trong nước, giảm thiểu các tác động gây ô nhiễm môi trường.

Các loại chế phẩm sinh học có nguồn gốc vi sinh vật là sản phẩm khai thác các dòng vi sinh vật có lợi mà khi được đưa vào môi trường nuôi thủy sản sẽ giúp cho tôm, cá tránh được một số bệnh do các dòng vi khuẩn có hại gây ra. Ngoài ra, một số vi sinh còn có tác dụng cải thiện khả năng hấp thu thức ăn của tôm, cá. Đồng thời, các dòng vi sinh này còn có khả năng thúc đẩy quy trình phân giải các chất hữu cơ hòa tan và không hòa tan trong môi trường nước và nền đáy ao nên giúp giảm thiểu đáng kể các nguồn khí độc hại đối với tôm, cá.

Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu quả sử dụng chế phẩm sinh học, bà con nuôi thủy sản cần lưu ý một số vấn đề sau:

- Thứ nhất, trên thị trường hiện nay có 3 dạng chế phẩm sinh học phổ biến là: dạng bột, dạng nước, dạng viên. Do đó, bà con cần lưu ý thực hiện đúng cách hướng dẫn sử dụng của mỗi dạng chế phẩm. Thông thường, loại chế phẩm sinh học có tính năng men tiêu hóa, bà con nên hòa thêm một ít nước rồi trộn vào thức ăn, còn loại chế phẩm có tác dụng xử lý môi trường nếu ở dạng bột, bà con có thể ngâm trong nước và sục khí một thời gian để chúng phát triển gia tăng số lượng vi sinh trước khi cho xuống ao đầm. Khi ngâm các sản phẩm này có thể cho thêm một ít đường để tăng tác dụng. Các sản phẩm dạng nước thì có thể sử dụng trực tiếp.

- Thứ hai, lưu ý ngoại trừ một số ít loại chế phẩm khuyến cáo chỉ sử dụng lúc trời nắng, còn lại đa số nên sử dụng lúc trời mát.

- Thứ ba, chỉ mua các sản phẩm có bao bì, nhãn mác, hạn sử dụng và số công bố chất lượng rõ ràng.

- Thứ tư, không sử dụng chế phẩm sinh học chung với kháng sinh và các loại hóa chất có tính diệt khuẩn.

Huỳnh Phương Thảo/ Trung tâm Khuyến nông Long An

Gây màu nước cho ao nuôi tôm và những lưu ý


Gây màu nước rất quan trọng trong nuôi tôm. Tuy nhiên, trên thực tế, hiệu quả của việc gây màu nước luôn không như mong muốn, có màu nước lợi cho tôm và cũng có màu nước lại gây hại cho tôm. Vì vậy, người nuôi tôm cần nắm vững quy luật thay đổi màu nước.

Nguyên tắc gây màu nước trước khi thả giống

- Nước được gây màu và các chất dinh dưỡng trong phân bón (đạm, lân, kali và các nguyên tố vi lượng khác) nên cân bằng giữa các chất.

- Phân vô cơ (phân hóa học) là sản phẩm hiệu quả tức thì, tuy gây màu nước nhanh nhưng thời gian duy trì ngắn; phân hữu cơ thuộc sản phẩm hiệu quả kéo dài, tuy gây màu nước chậm nhưng thời gian duy trì khá lâu. Hai loại kết hợp sử dụng một cách hợp lý có thể đạt được hiệu quả gây màu nước tốt vừa nhanh mà lại ổn định.

- Khi sử dụng phân vô cơ phải dựa vào tình hình ánh sáng mặt trời, dùng ít nhưng nhiều lần. Ánh sáng mạnh, thời gian chiếu sáng dài thì bón nhiều, ngược lại thì bón ít nhưng bón nhiều lần. Nếu không những ngày trời mưa, sau khi bón phân, phần lớn sẽ chìm xuống đáy ao, có khả năng khiến rêu xanh sinh sôi nhiều.

- Lượng phân bón cơ bản phải đủ, nhất định phải xem xét các chất dinh dưỡng đã có trong ao, chẳng hạn như bùn và kết cấu số lượng các chất dinh dưỡng cơ bản đã bón xuống ao. Nếu bùn đáy nhiều thì bón ít, bùn đáy ít hoặc ao mới thì bón một lượng thích hợp.

- Khi bùn đáy ít, nếu chỉ bón riêng chế phẩm vi sinh (khuẩn sống) thì hiệu quả gây màu tương đối kém, những khuẩn này sau khi xuống ao sẽ không gì có thể phân giải nó thành phân bón được.

- Bón phân sau khi thả giống nên bón ít nhưng nhiều lần, sử dụng ít hoặc thận trọng khi sử dụng phân đạm như phân urê, nếu không thì hàm lượng NH3 có thể sẽ tăng lên.

- Hàm lượng đạm lân thực tế trong nước vượt quá tỷ lệ 10:1 thì tảo Silic rất dễ sinh sôi phát triển mạnh; tỷ lệ đạm lân là 3:1 - 7:1, thậm chí gần 10:1 thì tảo lục dễ phát triển nhiều; nhưng tỷ lệ đạm lân xấp xỉ 1:1 thì các loại tảo như tảo Dinoflagellates hay tảo Flagellates độc hại dễ sinh sôi nhiều.

- Sau khi gây màu nước, độ trong suốt của nước nên nằm trong khoảng 30 cm. Nước màu xanh (xanh nhạt, xanh lục, xanh vàng hoặc màu đậu xanh) ổn định hơn so với nước màu nâu (màu trà, màu nâu sẫm). Muốn có được màu nước ổn định cần điều chỉnh số lượng, chủng loại phân bón.

Lợi và hại trong phương pháp gây màu nước theo thông thường

- Phương pháp gây màu nước thông thường trước tiên là dọn ao, giải độc, sau đó cho nước vào giải độc gây màu nước, trên cơ bản đã gây được màu nước, nhưng một tuần, nhiều nhất là khoảng nửa tháng thì nước lại trong và rớt tảo, quấn tảo. Nếu chỉ sử dụng những sản phẩm có chứa phân hóa học thì tuy phát huy tác dụng nhanh, nhưng thời gian ổn định không dài. Có không ít hộ nuôi sử dụng các phương pháp như: phân gà, vịt, lợn, bột chất lượng kém (vốn gọi là bột vàng), bã lạc, bã đậu, đường gạo thêm vào một ít phân hóa học hoặc các sản phẩm bán trên thị trường để gây màu, hiệu quả cũng rất ổn nhưng 10 - 15 ngày sau lại hết tác dụng. Đó là vì những dinh dưỡng được bón xuống nước không đầy đủ, không cân bằng dẫn đến hiện tượng thiếu hụt một vài chất dinh dưỡng (phần lớn là đạm đủ lân thiếu), một vài loại tảo bị ức chế sinh trưởng, mà cùng lúc lại có những loại tảo khác sinh trưởng dẫn đến quấn tảo.

- Có người sử dụng sản phẩm khuẩn sống (còn gọi là chế phẩm vi sinh hay sinh học) như: Vi khuẩn quang hợp, khuẩn Bacillus, khuẩn Nitrat… một số thấy hiệu quả ngay, một số hiệu quả không rõ rệt, tại sao lại như vậy?

Làm phép so sánh, khuẩn sống giống như nồi cơm điện và điện của chúng ta, các sản phẩm gây màu (như phân gà, đường gạo, bã đậu...) giống như gạo chúng ta bỏ vào nồi, bao nhiêu gạo thì nấu ra bấy nhiêu cơm. Khuẩn sống chủ yếu có tác dụng phân giải và phân giải từ từ, các chất dinh dưỡng bón xuống nước không nhiều hoặc ít bùn, tất nhiên là không đủ điều kiện gây màu, gây màu không đủ khó tránh khỏi nước thay đổi biến chất, đặc biệt là những ao mới, thời kỳ đầu cho ăn ít, chất bài tiết của tôm cũng rất ít, chất dinh dưỡng trong nước ao ít, hiệu quả sử dụng vi khuẩn làm sao có thể duy trì được trong thời gian dài đây? Trừ khi thêm vào các chất có đầy đủ dinh dưỡng vào trong sản phẩm khuẩn sống thông thường.

- “Axit amin gây màu nước”, sản phẩm này cũng phổ biến giống như chất gây màu nước axit amin, dầu gây màu nước axit amin, dịch gây màu axit amin, thành phần chủ yếu ngoài những axit amin phức hợp ra còn có peptit hoạt tính, nhiều vitamin và khoáng chất, thậm chí còn có cả khuẩn phức hợp có ích. Phát huy tác dụng nhanh, hiệu quả tốt, vì axit amin được sử dụng nhanh hơn các protein thông thường, dinh dưỡng phong phú, hiệu quả gây màu cũng duy trì được khá lâu, nhưng các axit amin sau khi phân giải chủ yếu sinh ra đạm, cũng có thể là do thiếu lân, kali hoặc các nguyên tố vi lượng… hoặc là tỷ lệ không cần bằng dẫn đến hiện tượng quấn tảo.

Nguyên nhân gây màu nước thất bại

- Số lượng tảo trong nguồn nước (nước ngầm, nước nghèo dinh dưỡng) phải cho vào ao ít, ví dụ như hồ cao triều, ao lót bạt, ao đất cát… không đủ dinh dưỡng, thiếu các muối dinh dưỡng mà các loại tảo cần để sinh trưởng;
- Sử dụng các thuốc giải độc có tác dụng phụ lớn, tiêu diệt các loại tảo và vi sinh vật, kìm hãm sự sinh trưởng và sự phát triển của nó;
- Nước ao axit;
- Mặc dù bón phân nhưng thiếu một vài loại muối dinh dưỡng hoặc đã mất tác dụng gây màu, các loại tảo cũng không phát triển nổi;
- Trời mưa, không đủ ánh sáng mặt trời hoặc là do nhiệt độ thấp kìm hãm tốc độ sinh sôi phát triển của tảo;
- Các động vật phù du ăn tảo trong nước nhiều (trùng bánh xe, các loại giáp xác chân chèo, Brine Shrimp);
- Trong nước có quá nhiều tảo tạp (Cladophora, Enteromorpha Prolifra, cỏ mương… vẫn gọi là “rêu”) ức chế sinh sôi phát triển của tảo đơn bào.

Đối sách

Tảo là một loại thực vật, bất kỳ loài thực vật nào sinh trưởng phát triển cũng cần có giống, phân, ánh sáng, thiếu một trong ba đều không được, do đó nếu muốn gây màu nước thì phải chuẩn bị ba việc sau đây:

- Giống tảo: Các loại tảo gây màu nước phải khỏe mạnh, đầy đủ chủng loại và cân bằng nhau.
- Phân bón: Dinh dưỡng trong phân bón cân bằng, hiệu quả nhanh và lâu dài đều.
- Ánh sáng: Không có ánh sáng thực vật không thể sinh trưởng phát triển được. Đồng thời các sinh vật có hại trong nước ít, pH, nhiệt độ nước thích hợp.

Quy trình kỹ thuật nuôi tôm sú cải tiến đem đến thành công cho các hộ nuôi


Kỹ thuật quy trình nuôi tôm sú bán thâm canh, thâm canh, công nghiệp, quy trình nuôi tôm sú quảng canh cải tiến và các bước để nuôi tôm sú không thể thiếu như: chọn ao và mùa vụ, hệ thống cống, cải tạo và xử lý ao, xử lý nước, chọn tôm sú giống, thả tôm, cho tôm ăn, và chăm sóc tôm để có cơ hội nuôi tôm thành công cao hơn.

Chọn địa điểm xây dựng ao

Xây dựng ao nuôi tôm sú ở vùng đã quy hoạch. Nền đất quy hoạch phải là đất thịt hoặc đất pha cát, ít mùn, có kết cấu chặt chẽ, giữ nước tốt, tiện lợi cho cấp và thoát nước. Chủ động nguồn cấp nước đảm bảo không bị ô nhiễm nước. Thuận lợi giao thông đi lại và đủ điện cung cấp.

Xây dựng ao nuôi tôm sú

1. Hệ thống ao nuôi theo quy trình nuôi tôm sú bao gồm: Ao lắng (chiếm 20 - 25% diện tích), ao nuôi (chiếm 60 - 70% diện tích) và hệ thống ao xử lý chất thải (10 - 15% diện tích).

2. Thiết kế ao ương: Tùy điều kiện mỗi hộ nuôi mà có thể thả nuôi trực tiếp hoặc thả ương trước khi đưa trực tiếp vào ao nuôi.

3. Thiết kế ao nuôi: Tùy diện tích mà thiết kế những ao nuôi nên có diện tích 1.500 - 3.000 m2, bờ ao 2 - 2,5 m, mức nước 1,4 - 2 m. Ao nuôi hình vuông hoặc có hình chữ nhật, góc ao nên được bo tròn. Rào lưới xung quanh để tránh các loài ký chủ gây bệnh cho tôm. Đáy ao bằng phẳng và nghiêng về hệ thống thoát. Bờ ao nên lót bạt để chống xói lở và giúp hạn chế rò rỉ.

Chuẩn bị ao nuôi theo quy trình nuôi tôm sú

1. Cải tạo ao (ao nuôi, ao lắng):

- Bước 1: Tháo cạn nước trong ao nuôi và ao lắng, sên vét đáy ao để loại bỏ các địch hại. Gia cố và lót bạt bờ ao để chống xói lở giúp hạn chế bị rò rỉ. Rào lưới để tránh các loài ký chủ trung gian gây bệnh từ ngoài vào. Tùy vào điều kiện và mật độ nuôi mà đáy ao nuôi có thể lót bạt nhằm hạn chế nước đục, giúp nâng cao độ hòa tan của ôxy khi đó tôm tăng trưởng tốt hơn.

- Bước 2: Bón vôi đá, tùy điều kiện pH trong đất mà bón.

Sau khi bón vôi đá, tùy chất đất mà có thể sử dụng thêm vôi nông nghiệp. Có thể thêm khoáng vi lượng làm tăng độ kiềm đối với ao lâu năm, nghèo chất dinh dưỡng theo quy trình nuôi tôm sú .

- Bước 3: Phơi đáy ao từ 5 - 7 ngày đến khi nứt chân chim thì lấy nước. Đối với những ao nuôi tôm không phơi được thì cần: bơm cạn hết nước, dùng máy đưa chất thải về góc cuối ao, bơm chất thải vào ao chứa thải, sau đó bón vôi đúng liều lượng như Bước 2. Sau đó cần cấp nước vào ao ngay ngày hôm sau để tránh xì phèn.

- Đối với ao mới: Ngâm rửa đáy ao khoảng 2 - 3 lần rồi xử lý.

2. Lấy và xử lý nước

- Bước 1: Lấy nước vào ao lắng (qua túi lọc), lắng từ 3 - 5 ngày.

- Bước 2: Cấp nước từ ao lắng sang ao nuôi (qua túi lọc) đạt 1,3 - 1,4 m; chạy quạt thêm 3 ngày cho trứng và giáp xác nở.

- Bước 3: Xử lý Chlorine nồng độ 30 ppm (30 kg/1.000 m3 nước) hoặc TCCA 20 ppm vào buổi tối để diệt khuẩn.

- Bước 4: Xử lý EDTA liều 2 - 3 kg/1.000 m3 nước để khử các kim loại nặng và độ cứng nước ao.

Chạy quạt liên tục trong thời kì xử lý nước để phân hủy dư lượng Chlorine có trong ao nuôi.

3. Gây màu nước

- Gây màu nước với mật đường + cám gạo + bột đậu nành (tỷ lệ 3:1:3) ủ trong 12 giờ. Liều lượng 3 kg/1.000 m3 nước ao nuôi, tạt liên tục 3 ngày vào 9 - 10 giờ sáng và kết hợp với vôi Dolomite 10 - 15 kg/m3. Khi nước ao nuôi chuyển sang màu tảo khuê (vàng hoặc nâu nhạt) hay xanh vỏ đậu thì dùng 3 kg mật đường/100 m3 nước để kết hợp cấy men vi sinh rồi sau đó thả giống theo đúng quy trình nuôi tôm sú đề ra.

- Đối với các ao khó gây màu nước, hay màu nước không bền thì nên bổ sung các thành phần khoáng chất, kết hợp dùng dây xích kéo đáy 2 lần/ngày.

- Kiểm tra và thay đổi các yếu tố môi trường hợp lý trước khi thả tôm: pH 7,5 - 8,5 (dao động trong ngày không quá 0,5); độ kiềm: 120 - 180 mg/l; độ mặn 5 - 25‰ (tốt nhất > 5‰); độ trong 30 - 40 cm; NH3 < 0,1 mg/l; H2S < 0,03 mg/l; hàm lượng ôxy hòa tan > 5 mg/l.

Chạy quạt liên tục ban ngày nhằm kích ứng tảo phát triển.

Thiết kế quạt nước quy trình nuôi tôm sú công nghiệp

Vị trí đặt cách bờ khoảng 1,5 m. Khoảng cách giữa hai cánh quạt tầm 40 - 60 cm và lắp so le nhau. Tùy theo ao mà bố trí cánh quạt nước tạo được dòng chảy tốt nhất, nếu mật độ nuôi lớn hơn 60 con/m2 cần lắp thiết bị cung cấp ôxy dưới đáy để đảm bảo đủ ôxy cho tôm nuôi theo quy trình nuôi tôm sú.

Quản lý ôxy hòa tan trong nước. Hệ thống cung cấp ôxy dành cho tôm chủ yếu sử dụng cánh quạt nhựa hoặc quạt lông nhím. Trong ao nuôi tôm nếu kết hợp được cả hai loại cánh quạt này theo tỷ lệ 1:1 là tốt nhất vì sẽ tạo dòng chảy tốt để tạo vùng cho ăn và sinh hoạt sạch cho tôm nuôi, tăng thêm  khả năng cung cấp ôxy hòa tan trong ao.

Chọn giống quy trình nuôi tôm sú giống

1. Chọn giống. Chọn con giống ở các địa chỉ có uy tín và nguồn gốc rõ ràng. Người nuôi có thể chọn bằng cảm quan hoặc qua xét nghiệm.

2. Thả giống. Thả ương với mật độ khoảng 600 - 1.000 con/m2. Mật độ thả nuôi: khoảng 30 - 80 con/m2. Chạy quạt trước khi thả giống tầm 6 giờ để đảm bảo đủ lượng ôxy hòa tan đạt 5 mg/l trở lên. Thuần tôm khoảng 30 phút rồi thả. Thả vào lúc sáng sớm hoặc thả vào chiều mát và theo hướng trên gió.

Chăm sóc và quản lý quy trình nuôi tôm sú

1. Cho ăn.

Tùy điều kiện của từng hộ mà cho ăn theo cách thủ công hoặc cài đặt thiết bị máy cho ăn tự động nếu nuôi tôm với mật độ cao.

Khi tôm khoảng 15 ngày tuổi, thực hiện đặt sàn ăn và khi tôm 25 ngày tuổi thì thay đổi lượng thức ăn qua thời gian ăn hết thức ăn trong sàn kết hợp quy trình nuôi tôm sú bằng vi sinh để đạt hiệu quả cao nhất.

Cho ăn 4 - 5 lần/ngày.

2. Quản lý môi trường ao nuôi

- Kiểm tra độ pH, trong ao 2 lần/ngày vào lúc 7h và 15h, kiểm tra độ kiềm trong ao, NH3 3 ngày/lần để tùy chỉnh cho phù hợp.

- Trong quá trình sinh trưởng, tôm nuôi cần rất nhiều khoáng chất, do đó cần duy trì độ kiềm 120 mg/l trở lên bằng cách dùng vôi CaCO3 hoặc sử dụng Dolomite và hay bổ sung khoáng cho ao nuôi vào ban đêm khoảng 3 - 5  ngày/lần giúp cho tôm nhanh cứng vỏ và lột xác đồng loạt.

- Định kỳ 7 - 10 ngày/lần cấy vi sinh để tăng cường thêm mật độ vi khuẩn lợi trong ao nuôi hoặc từ 7 - 10 ngày/lần diệt khuẩn cho ao nuôi kết hợp cấy thêm men vi sinh trở lại sau 48 giờ. Hạn chế lấy nước vào ao nuôi tôm, khi cần thì lấy nước vào ao lắng rồi xử lý Chlorine liều 30 kg/1.000 m3 đến khi dư lượng Chlorine trong nước hết thì bơm vào ao nuôi, mỗi lần cấp khoảng 20% lượng nước cho ao nuôi, vào lúc trời mát.

3. Quản lý sức khỏe tôm nuôi

- Hằng ngày quan sát các hoạt động bắt mồi và sức khỏe của tôm trong ao, xem biểu hiện các bên ngoài của tôm thông qua màu sắc, phụ bộ, thức ăn trong ruột… để có thể phát hiện các dấu hiệu bất thường.

- Dùng 2 sàn trở lên để kiểm tra sức khỏe của tôm nuôi để điều chỉnh khẩu phần ăn cho hợp lý. Định kỳ từ 7 - 10 ngày chài tôm để xác định tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng, sức khỏe tôm cũng như về trọng lượng, sản lượng tôm ở trong ao nuôi nhằm điều chỉnh thức ăn của tôm nuôi cho phù hợp.  Bổ sung thêm Vitamin C, thêm men tiêu hóa đường ruột, khoáng chất và có thể bổ thêm nhóm dinh dưỡng hỗ trợ giải độc trong gan trộn cho tôm ăn mỗi ngày theo  quy trình nuôi tôm sú đã đặt ra.

Thu hoạch

Thời gian theo quy trình nuôi tôm sú thường khoảng 90 ngày tuổi, tùy vào giá cả thị trường, nhu cầu người nuôi và chất lượng của ao nuôi. Khi tôm ăn đạt trọng lượng khoảng 15 - 20 g/con thì có thể thu hoạch.


Quy trình xử lý ao nuôi cá nước ngọt


Sau khi kết thúc vụ nuôi cũ và bắt đầu vụ nuôi mới, việc xử lý ao nuôi cá là một trong những thao tác vô cùng quan trọng, giúp loại bỏ khí độc, thức ăn thừa, mầm bệnh tồn tại trong nước áo, đáy ao. Đồng thời, đây cũng là cách tạo ra môi trường sinh trưởng, phát triển tốt nhất cho cá trong vụ nuôi mới. Vậy các thao tác xử lý ao nuôi cần được thực hiện như thế nào?

1. Làm sạch đáy ao

Thông thường, một vụ nuôi cá thường kéo dài trong khoảng 10-12 tháng. Với thời gian như vậy, đáy ao sẽ tích tụ rất nhiều thức ăn thừa, chất thải của cá cũng như nhiều vi khuẩn gây hại và mầm bệnh khác. Do đó, trong quy trình xử lý ao nuôi cá, việc bạn cần quan tâm đầu tiên chính là làm sạch đáy ao thông qua các thao tác như bơm cạn nước, nạo vét bớt bùn… Nếu như diện tích ao nuôi lớn, bà con có thể tận dụng sự trợ giúp của máy vét bùn, giúp việc thực hiện diễn ra đơn giản mà hiệu quả cao.

2. Bón vôi cho ao nuôi

Đây cũng là một trong những thao tác vô cùng quan trọng bởi sử dụng vôi là cách giúp bà con tiến hành khử trùng ao hiệu quả, đồng thời tạo điều kiện duy trì độ pH ở mức ổn định cũng như giúp các chất hữu cơ được phân hủy trong điều kiện tốt nhất. Bên cạnh đó, các vi sinh vật có lợi cũng sẽ phát triển nhanh và dễ dàng hơn. Khi bón vôi để cải tạo ao nuôi cá, bà con có thể sử dụng một trong hai loại vôi cơ bản hiện nay là vôi sống (CaO) hoặc đá vôi nghiền (CaCO­3). Tuy nhiên, vôi sống vẫn là lựa chọn tốt, được ưa chuộng hơn cả nhờ khả năng diệt khuẩn mạnh mẽ, giúp cân bằng pH tối ưu.

Để thực hiện thao tác này, bà con hãy rải đều vôi khắp ao cũng như bờ ao. Đặc biệt, với vị trí thường cho cá ăn, bà con cần bón nhiều vôi hơn so với thông thường. Lượng vôi sử dụng tùy thuộc vào độ pH đo được ở ao. Thông thường, ao thịt có pH ≥ 6,5 bón, bà con cần sử dụng vôi bón với tỉ lệ 5-7kg/ 100 m2. Trong khi đó, ao bị ô nhiễm, bị chua, lượng vôi sử dụng ở mức 10-15kg/ 100m2. Sau khi tiến hàng bón vôi, bà con hãy phơi ao trong khoảng 3-5 ngày trước khi tiến hành cấp nước.

3. Cấp nước cho ao nuôi

Sau khi thực hiện các bước xử lý ao nuôi cá trên, bà con có thể tiến hành cấp nước cho ao nuôi cũng như thực hiện các thao tác gây màu nước. Nước trước khi được bơm vào ao cần được lọc kỹ để loại bỏ tạp chất, vi khuẩn cũng như ấu trùng gây hại. Ngoài ra, bà con có thể sử dụng quạt nước trong vài ngày đầu để ấu trùng, trứng của mầm bệnh nở ra và xử lý với formol với liều lượng 30 lít/1.000 m3. Để giảm lượng Chlorine, sau khi sử dụng, bà con hãy sử dụng quạt nước thêm từ 2-3 ngày, giúp tạo ra môi trường nước tốt nhất.

Khi nước đã chuẩn bị xong, bà con hãy tiến hành các thao tác gây màu nước cho ao nuôi cá. Đây là một bước quan trọng, giúp môi trường ao nuôi đảm bảo ổn định, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của các vi sinh vật có lợi mang đến nguồn thức ăn bổ dưỡng hoàn toàn tự nhiên cho cá. Để gây màu nước, bà con có thể sử dụng phân hữu cơ hoặc phân vô cơ đều được. Khoảng 2-3 ngày gây màu nước, bà con có thể tiến hành thả cá.

Trên đây là quy trình xử lý ao nuôi cá sau khi kết thúc vụ nuôi cũ và bắt đầu vụ nuôi mới mà bà con có thể tham khảo và áp dụng. Điều này sẽ giúp giảm chi phí thức ăn khi thả nuôi cũng như giúp phòng ngừa bệnh cho cá một cách tối ưu nhất.

Một số biện pháp xử lý nước phục vụ cho trại tôm giống


Nước biển có độ khoáng rất cao, thường vào khoảng 35g/l. Nồng độ muối trong nước biển lớn hơn trong nước ngọt 2.000 lần. Độ khoáng hóa nước biển hoàn toàn phụ thuộc vào lượng các ion chủ yếu có trong nước biển. Trong nước biển, Na+, Cl-, Mg2+ chiếm 90%; K+, Ca2+, SO4 2- chiếm 3%; các chất còn lại chiếm 7% tổng lượng các chất.

1. Xử lý các chất cặn bã hữu cơ và khử trùng:

1.1 Thuốc tím (KMnO4).

Thuốc tím có tác dụng loại bỏ các chất hữu cơ và kim loại nặng. Đối với nguồn nước biển có hàm lượng phù sa nhiều, độ đục cao, có nhiều chất, hàm lượng kim loại nặng cao. Cần phải loại bỏ chúng trước khi đưa vào xử lý diệt trùng.

Dựa trên các nguyên lý sử dụng thuốc tím theo phương trình (1) và (2) như sau:

3Fe(HC03)2+ KMnO4+ 7H2O → MnO2+ 3Fe(OH)3↓+ KHCO3+ 5H2CO3
1mg Fe2+/ liter ≈ 0,94mg KMnO4
3H2S + KMnO4→ S + MnO + 3H2O
1mg H2S/ liter ≈ 6,19mg KMnO4/ liter

Thông thường lượng thuốc tím cần dùng để xử lý nguồn nước biển từ Vũng Tàu đến Cà Mau từ 0,5-2 mg/ lít.

Nước biển sau khi dùng thuốc tím để xử lý sẽ có màu tím hồng nhưng nhanh chóng mất màu và tạo kết tủa. Nếu lượng thuốc tím vừa đủ thì sau 24h thì nước sẽ trong.

1.2 Xử lý nước bằng EDTA

Ngoài ra có thể sử dụng EDTA với nồng độ 5-10 ppm để xử lý nước ngay trong bể nuôi ấu trùng.

1.3 Khử trùng nước bằng Clorin

Chlorin Ca(OCl)2 khi hòa tan vào nước sẽ tồn tại dưới dạng Cl2.HOCl.OCl.Cl2 có tác dụng diệt trùng cao.

Thường Clorin thương mại 70% có nghĩa là 1gr Clorin đó có chứa 0,392 g Cl2. Sau khi xử lý Clorin, lượng Cl2 vẫn còn dư thừa trong nước, lượng Cl2 dư thừa trong nước cũng sẽ gây độc đối với tảo và ấu trùng tôm, do vậy trước khi đưa nước vào bể nuôi tôm giống phải loại bỏ lượng Cl2 dư thừa bằng Thiosulphat:

Cl2+ 2Na2CO3.H2O → Na2S2O6+ NaCl + 10H2O

* Cách kiểm tra Cl2 tự do dư thừa trong nước:

Lấy 10-20 ml nước đã xử lý Chlorin nhỏ 1-2 giọt thuốc thử Orthotolidin 1% nếu nước xuất hiện màu vàng là còn dư Cl 2, nếu nước không màu chứng tỏ đã không còn dư Cl2.

* Theo kinh nghiệm, sau 24 h xử lý Chlorin, người ta dùng một lượng Thiosulphat tương đương với lượng Chlorin đã sử dụng để khử lượng Cl2 dư thừa trong nước.

2. Lọc cơ học:

Nước trong bể lắng đã được loại bỏ chất hữu cơ, khử trùng sẽ được lọc qua bể cát.
Thông thường bể lọc cát có thể tích 2m3 sử dụng 300kg cát có đường kính 0,5-1mm 100 kg đá 1-2.

3. Trình tự các bước xử lý nước trong trại sản xuất tôm giống.

Bước 1: Bơm nước từ biển lên bể lắng.
Bước 2: Xử lý thuốc tím (trong thời gian 24h).
Bước 3: Bơm nước từ bể lắng sang bể xử lý.
Bước 4: Xử lý Chlorin trong bể xử lý (trong thời gian 24h).
Bước 5: Bơm nước từ bể lắng sang bể lọc.
Bước 6: Nước từ bể lọc chảy tự động sang các bể nuôi theo yêu cầu.

Nguồn Trung tâm Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản – Đại Học Thủy Sản


Bài viết được xem nhiều