Hiển thị bài đăng được sắp xếp theo mức độ liên quan cho truy vấn chế phẩm sinh học. Sắp xếp theo ngày Hiển thị tất cả bài đăng

Chế phẩm vi sinh trong nuôi trồng thủy sản: Lợi ích và những điều bà con cần lưu ý


Sử dụng chế phẩm vi sinh trong nuôi thủy sản là hướng đi có ý nghĩa thực tiễn nhằm bảo vệ môi trường và đảm bảo hiệu quả sản xuất. Từ đó, góp phần đưa nghề nuôi thủy sản phát triển bền vững.

Chế phẩm vi sinh trong nuôi trồng thủy sản là gì?

Về hình thức, men vi sinh có 02 dạng, dạng nước và dạng bột (hay dạng viên). Bình thường, dạng bột có mật độ vi khuẩn có lợi cao hơn so với dạng nước.

Về chủng loại, men vi sinh có 02 loại, loại dùng để xử lý môi trường (loài vi khuẩn chính là  Bacillus sp.) và loại trộn vào thức ăn (loài vi khuẩn chính là Lactobacillus).

Hai thành phần chính của men vi sinh là vi khuẩn có lợi và các chất dinh dưỡng để nuôi vi khuẩn. Vi khuẩn có lợi được phân lập từ nhiều nguồn khác nhau. Chúng gồm các loài như Bacillus sp., Nitrosomonas, Nitrobacter... Chất dinh dưỡng là các loại như đường, muối canxi, muối magiê…

Các lợi ích mang lại khi sử dụng men vi sinh:

(1) Làm ổn định chất lượng nước và nền đáy trong ao nuôi tôm, cá.
(2) Nâng cao sức khoẻ và sức đề kháng của tôm, cá.
(3) Giảm thiểu ô nhiễm môi trường ao nuôi và xung quanh do nuôi thuỷ sản gây nên.
(4) Nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn.

Các lợi ích đạt được như trên là do hoạt động tích cực của vi khuẩn qua một hay nhiều cơ chế tác động:

(1) Cạnh tranh mạnh mẽ chất dinh dưỡng, năng lượng và giá thể với các loài vi khuẩn có hại khác và tảo độc.
(2) Chuyển hoá các chất hữu cơ như thức ăn dư, xác tảo, cặn bã thành CO2 và nước; chuyển các khí độc như NH3, NO2 thành các chất không độc như NH4+, NO3-.
(3) Hạn chế vi khuẩn có hại trong đường ruột và giúp chuyển hoá hiệu quả thức ăn.
(4) Tiết ra một số chất kháng sinh, enzyme để kìm hãm hay tiêu diệt mầm bệnh.

Để men vi sinh phát huy hiệu quả cao, người nuôi thủy sản phải tuân thủ một số nguyên tắc dùng sau đây:

- Hoà loãng men vi sinh bằng nước trong ao nuôi, cho vào xô, thau, sau đó sục khí 4 - 5 giờ đến khi men có mùi chua hay pH giảm thì đem bón.

- Định kỳ dùng trong quá trình nuôi. Thông thường 7 - 10 ngày/lần đối với loại xử lý môi trường và luân phiên sử dụng 5 ngày, sau đó ngưng 5 ngày đối với loại trộn vào thức ăn. Sử dụng cùng lúc với bón phân gây màu nước hay sau khi nước đã lên màu.

- Liều lượng dùng phải theo đúng theo đề nghị của nhà sản xuất.

- Khi môi trường ao nuôi có dấu hiệu hay đang suy giảm chất lượng như hàm lượng khí độc cao (NH3, H2S, NO2…), nước nhiều cặn bã, nước phát sáng thì men vi sinh được sử dụng sớm hơn so với thường ngày với liều lượng tăng gấp 2 lần so với đề nghị để xử lý khí độc trong ao nuôi tôm.

- Không được sử dụng men vi sinh cùng với các loại hoá chất có tính diệt khuẩn như BKC, thuốc tím, Chlorine, i-ốt, kháng sinh. Đồng thời, không được sử dụng men vi sinh khi các chất trên đang hiện diện trong môi trường nước hay trong thân tôm, cá nuôi.

- Trước khi bón men vi sinh cần cải thiện môi trường ao nuôi bằng các biện pháp như thay nước, bón vôi nâng pH lên 7,5 - 8,5, bón vôi + Dolomite + Khoáng nâng cao độ kiềm.

- Men vi sinh sẽ có hiệu quả sau khi sử dụng 2 - 4 ngày, thể hiện qua màu nước và các chỉ tiêu môi trường.


Một số điều lưu ý về chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản

Trong những năm gần đây, việc ứng dụng các giải pháp kỹ thuật thích hợp vào nuôi thủy sản ngày càng phát triển tích cực, đặc biệt là việc sử dụng các loại chế phẩm sinh học vì giúp nâng cao sức tăng trưởng, đề kháng của tôm, cá và hạn chế việc lưu tồn mầm bệnh trong nước, giảm thiểu các tác động gây ô nhiễm môi trường.

Các loại chế phẩm sinh học có nguồn gốc vi sinh vật là sản phẩm khai thác các dòng vi sinh vật có lợi mà khi được đưa vào môi trường nuôi thủy sản sẽ giúp cho tôm, cá tránh được một số bệnh do các dòng vi khuẩn có hại gây ra. Ngoài ra, một số vi sinh còn có tác dụng cải thiện khả năng hấp thu thức ăn của tôm, cá. Đồng thời, các dòng vi sinh này còn có khả năng thúc đẩy quy trình phân giải các chất hữu cơ hòa tan và không hòa tan trong môi trường nước và nền đáy ao nên giúp giảm thiểu đáng kể các nguồn khí độc hại đối với tôm, cá.

Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu quả sử dụng chế phẩm sinh học, bà con nuôi thủy sản cần lưu ý một số vấn đề sau:

- Thứ nhất, trên thị trường hiện nay có 3 dạng chế phẩm sinh học phổ biến là: dạng bột, dạng nước, dạng viên. Do đó, bà con cần lưu ý thực hiện đúng cách hướng dẫn sử dụng của mỗi dạng chế phẩm. Thông thường, loại chế phẩm sinh học có tính năng men tiêu hóa, bà con nên hòa thêm một ít nước rồi trộn vào thức ăn, còn loại chế phẩm có tác dụng xử lý môi trường nếu ở dạng bột, bà con có thể ngâm trong nước và sục khí một thời gian để chúng phát triển gia tăng số lượng vi sinh trước khi cho xuống ao đầm. Khi ngâm các sản phẩm này có thể cho thêm một ít đường để tăng tác dụng. Các sản phẩm dạng nước thì có thể sử dụng trực tiếp.

- Thứ hai, lưu ý ngoại trừ một số ít loại chế phẩm khuyến cáo chỉ sử dụng lúc trời nắng, còn lại đa số nên sử dụng lúc trời mát.

- Thứ ba, chỉ mua các sản phẩm có bao bì, nhãn mác, hạn sử dụng và số công bố chất lượng rõ ràng.

- Thứ tư, không sử dụng chế phẩm sinh học chung với kháng sinh và các loại hóa chất có tính diệt khuẩn.

Huỳnh Phương Thảo/ Trung tâm Khuyến nông Long An

Sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản như thế nào cho đúng?

Tránh dịch bệnh, bảo vệ môi trường là ưu thế của chế phẩm sinh học (CPSH) trong việc sản xuất thuỷ sản sạch. Tuy nhiên, việc ngộ nhận CPSH là vô hại khiến nhiều bà con sử dụng nó một cách vô tội vạ, khi tôm cá chết hàng loạt lại nghĩ do ô nhiễm môi trường.

Đừng lạm dụng chế phẩm sinh học không đúng cách

Nhiều lô hàng thuỷ sản xuất khẩu bị trả về do dư lượng kháng sinh lớn chỉ là một trong các tác hại của tình trạng lạm dụng kháng sinh, bên cạnh sự gia tăng bệnh dịch do kháng thuốc, môi trường bị ảnh hưởng. Sự lên ngôi của các CPSH thời gian qua góp phần giải quyết nạn này. Tuy nhiên, do nhiễu thông tin từ các công ty bán CPSH, nhiều nông dân dùng không đúng chỉ dẫn của các nhà khoa học, dẫn đến thất bại.


CPSH còn gọi là men vi sinh - tiếng Anh là probiotics - bao gồm hai từ pro có nghĩa là thân thiện hay thiên về và biotics có nghĩa là sự sống, sinh vật. CPSH được sản xuất với mục đích kích thích sự gia tăng các loài vi khuẩn có lợi trong môi trường. CPSH là sản phẩm được tạo ra bởi con người, bằng cách kết hợp hai hoặc nhiều dòng vi khuẩn có lợi trong cùng một môi trường để tác động tới đối tượng cần cải tạo (đất, nước, đường ruột, v.v…). Gần đây, việc sử dụng các chế phẩm trong chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản – nuôi tôm thẻ chân trắng, tôm sú, cá tra, ốc hương, ếch, v.v… là một xu hướng mới thay thế cho biện pháp dùng kháng sinh hoặc loại bỏ việc dùng các chất diệt khuẩn như Cloramin, clorine, focmon, peracetic acid…
Trên thị trường hiện có hàng nghìn sản phẩm hóa chất, men vi sinh dùng trong xử lý, cải tạo môi trường nuôi thuỷ sản, có loại nằm trong danh mục cho phép, có loại đang thử nghiệm, có loại nhập lậu… do hàng trăm doanh nghiệp lớn, nhỏ đưa xuống bán cho các đại lý, hoặc tuồn thẳng vào ao nuôi.

Thị trường sản phẩm hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản không chỉ loạn hoá chất, kháng sinh mà còn loạn cả CPSH. Những chế phẩm này được doanh nghiệp, đại lý quảng bá như là thần dược trong việc cải tạo, làm sạch môi trường, lập lại cân bằng sinh thái trong ao nuôi, giúp con tôm không dính bệnh tật do diệt được vi khuẩn trong nước, diệt tảo độc, ức chế khí độc...

Người dân đang bị “ngộ độc” giữa một rừng kiến thức. Không nhiều nông dân nuôi thuỷ sản hiểu các thông tin ghi trên bao bì CPSH, men vi sinh, không biết những dòng ghi thành phần như “số lượng vi khuẩn hiếu khí Bacillus lichenniformis (109 CFU/g); Saccharomyces cereviseae (109 CFU/g); Lactobacillus acidophilus (5x1011 CFU/kg)…” có ý nghĩa gì.

Bà con cũng không phân biệt được CPSH nào tốt, cứ thấy công ty, đại lý bán thuốc nào đến tận nơi quảng cáo rầm rộ thì tin và mua. Ngoài ra, do không được hướng dẫn sử dụng một cách khoa học, họ có xu hướng cho CPSH xuống ao nuôi một cách tuỳ tiện, sai cách.

Với việc sử dụng tuỳ tiện như vậy, tỷ lệ thành công chỉ khoảng 2-3% do ao nuôi đó may mắn không có vi bào tử trùng. Với những ao thất bại, tôm cá chết, bà con tin lời người bán thuốc là do môi trường ô nhiễm, khí độc, virus mà không biết nguyên nhân thực sự.
ThS Nguyễn Văn Trọng - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II - cho biết, tác dụng của CPSH tùy thuộc đặc điểm môi trường trong từng trường hợp. Khi môi trường đầy vi sinh vật có hại, nếu đưa CPSH vào, vi khuẩn có lợi bị tiêu diệt hết, tác dụng sẽ bằng không.

Còn trong môi trường bình thường, việc dùng CPSH để tăng vi khuẩn có lợi sẽ giảm nguy cơ dịch bệnh, qua đó giảm lượng KS phải dùng. “CPSH giúp giảm nguy cơ dịch bệnh, còn nếu đã có bệnh thì vẫn phải dùng KS” - ông Trọng nói. Vì vậy, muốn loại trừ kháng sinh, cần dùng CPSH đúng cách.

Những hạn chế của CPSH trong nuôi trồng thủy sản như: CPSH chỉ có thể phòng ngừa dịch bệnh phát sinh trong quá trình nuôi trồng thủy sản chứ không thể điều trị khi bệnh xảy ra; Khi sử dụng CPSH tuyệt đối không thể sử dụng các hóa chất diệt khuẩn khác, vì hóa chất sẽ tiêu diệt các vi sinh làm mất tác dụng; Hoạt động hiệu quả trong môi trường nước tĩnh và sau khi đã diệt khuẩn trong ao nuôi; Trong các ao nuôi có nhiều biến động mạnh CPSH thường mang lại tác dụng thấp và không hiệu quả như những ao có khả năng quản lý môi trường nước tốt.

Do vậy, khi sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản, bà con cần lưu ý:


- Sử dụng định kỳ trong quá trình nuôi. Thông thường đối với nhóm chế phẩm xử lý môi trường thì 7 - 10 ngày sử dụng 1 lần và đối với nhóm hỗ trợ tiêu hóa thì có thể luân phiên sử dụng 3 - 5 ngày, sau đó ngưng 5 - 7 ngày. Cách dùng và liều lượng phải tuân thủ hướng dẫn của nhà sản xuất.

- Thời gian xử lý vi sinh tốt nhất là lúc trời nắng và khi môi trường trong ao đã đủ lượng oxy hòa tan để các dòng vi khuẩn nhanh chóng được khởi động và nhân rộng sinh khối.

- Bà con tuyệt đối không được sử dụng chế phẩm sinh học cùng với các loại hoá chất có tính diệt khuẩn như BKC, thuốc tím, Chlorine, kháng sinh ... Khi đã sử dụng các hóa chất nêu trên thì sau 3 - 5 ngày mới được dùng chế phẩm.

- Chỉ sử dụng các loại men vi sinh của các công ty có uy tín chất lượng và có tên trong danh mục được phép lưu hành tại Việt Nam theo quy định của Bộ Nông nghiệp-PTNT.


Tầm quan trọng của việc ứng dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản


Trước yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng đối với các mặt hàng thực phẩm thủy sản là phải an toàn, chất lượng, đòi hỏi người nuôi thủy sản phải tăng cường các biện pháp phòng bệnh nhằm hạn chế dư lượng các loại hóa chất và kháng sinh trong sản phẩm thủy sản để đáp ứng nhu cầu thị trường, nhất là thị trường quốc tế. Vì vậy, việc ứng dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản (CPSH) được xem là chìa khóa góp phần cho sự thành công của nghề nuôi thủy sản thời hội nhập.

CPSH là sản phẩm có chứa các nhóm vi sinh vật (là những loài vi khuẩn sống có lợi) như nhóm: Bacillus sp., Lactobacillus sp., Nitrosomonas sp., Nitrobacter sp….

Ngoài ra, trong thành phần của một số CPSH có chứa các enzyme (men vi sinh) như Protease, Lipase, Amylase… có tác dụng hỗ trợ tiêu hóa và giúp hấp thu tốt thức ăn.

Khi đưa CPSH vào môi trường nước ao, các vi sinh vật (VSV) có lợi sẽ sinh sôi và phát triển rất nhanh trong môi trường nước. Các VSV có lợi này được xem là “người lao động” rất cần mẫn trong ao nuôi, sự hoạt động của chúng có tác dụng:

– Làm sạch nước và đáy ao nuôi nhờ chúng phân hủy các chất hữu cơ trong nước, hấp thu chất dinh dưỡng hòa tan trong nước nên hạn chế tảo phát triển và vi sinh xử lý bùn đáy ao thủy sản giúp giảm lớp bùn đáy ao. Nhờ vậy, giúp ổn định pH nước, ổn định màu nước, giảm khí độc NH3, H2S… làm cho tôm cá khỏe mạnh, ít bệnh, ăn nhiều, mau lớn.

– VSV có lợi phát triển nhiều sẽ kìm hãm, ức chế, lấn át sự phát triển của VSV có hại do chúng cạnh tranh thức ăn và tranh giành vị trí bám với VSV có hại, do đó sẽ hạn chế được mầm bệnh phát triển để gây bệnh cho tôm, cá.

– Khi CPSH được sử dụng trộn vào thức ăn cho tôm, cá ăn sẽ nâng cao khả năng hấp thu thức ăn của cơ thể tôm, cá, làm giảm hệ số thức ăn và phòng, chống các bệnh nhiễm khuẩn đường ruột cho tôm cá.

Do vậy, việc sử dụng CPSH góp phần hạ giá thành sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế cho các mô hình nuôi thủy sản như:

Làm tăng hiệu quả sử dụng thức ăn (giảm hệ số thức ăn); tôm, cá mau lớn, rút ngắn thời gian nuôi; tăng tỷ lệ sống và tăng năng suất cho tôm, cá nuôi; giảm chi phí thay nước; giảm chi phí sử dụng thuốc kháng sinh, hóa chất trong việc điều trị bệnh; tạo ra sản phẩm an toàn, chất lượng và góp phần bảo vệ môi trường.

Các CPSH có tác dụng chính là phòng bệnh cho tôm, cá, cho nên cần phải sử dụng càng sớm càng tốt để phát huy tối đa hiệu quả phòng bệnh. Vì vậy, khi sử dụng CPSH cần lưu ý những yêu cầu sau:

– Nên sử dụng CPSH ngay sau khi cải tạo ao.

Vì trong quá trình cải tạo ao, diệt tạp thì hầu như các VSV (kể cả VSV có lợi và có hại) đều bị tiêu diệt. Do đó, trước khi thả giống vào ao nuôi cần phải đưa CPSH vào nước ao để phục hồi sự hiện diện của các VSV có lợi và tái tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho ao (đặc biệt là những ao ương tôm, cá giống).

– Khi sử dụng CPSH, ngoài việc xem trong thành phần có chứa các nhóm vi sinh (vi khuẩn có lợi) hay không, người sử dụng cần xem kỹ các công dụng và hướng dẫn sử dụng (có in ở ngoài bao bì) để tùy trường hợp cụ thể của mỗi ao nuôi tôm, cá mà sử dụng đúng theo công dụng và hướng dẫn để hiệu quả sử dụng CPSH đạt được cao nhất.

– Không sử dụng CPSH cùng lúc với các loại hóa chất và kháng sinh, vì kháng sinh và hóa chất sẽ làm chết các nhóm vi sinh của các CPSH, do đó việc sử dụng CPSH sẽ không có hiệu quả.

– Nếu đã sử dụng các loại hóa chất (Formol, thuốc tím, phèn xanh, BKC …) tạt vào ao nuôi thì khoảng 2 – 3 ngày sau nên sử dụng CPSH để khôi phục lại các nhóm VSV có lợi trong nước để cải thiện chất lượng nước và hạn chế ô nhiễm môi trường.

– Nếu đã sử dụng kháng sinh để trị bệnh thì sau khi ngưng sử dụng kháng sinh nên dùng các loại men vi sinh trộn vào thức ăn cho tôm cá ăn để khôi phục lại hệ men đường ruột vì thuốc kháng sinh đã làm chết hệ men đường ruột trong hệ tiêu hóa của tôm, cá.

– Cần lưu ý đến điều kiện bảo quản các CPSH ở các nơi cung ứng, vì các CPSH nếu để nơi có ánh nắng trực tiếp thì sẽ làm chết các nhóm VSV có lợi trong CPSH, do đó việc sử dụng CPSH sẽ không còn tác dụng.

Sử dụng CPSH trong quy trình nuôi thủy sản được xem là một tiến bộ khoa học – kỹ thuật, có ý nghĩa sâu xa là tạo được sự an toàn về môi trường, cũng như an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng. Vì sức khỏe con người và sự phát triển nghề nuôi thủy sản bền vững, hãy ứng dụng chế phẩm sinh học để sản xuất ra những sản phẩm thực phẩm thủy sản an toàn, chất lượng.

Theo: KS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG DUNG


Xử lý tảo bằng vôi kết hợp chế phẩm sinh học hiệu quả

Khi tảo trong ao nuôi phát triển quá mức cần phải xử lý ngay, cắt tảo bằng vôi được xem là phương pháp mang lại hiệu quả nhanh và an toàn, tuy nhiên tảo có thể phát triển trở lại nhanh chóng do ao dư thừa dinh dưỡng. Như vậy phải xử lý tảo bằng vôi như thế nào cho hiệu quả lâu dài?

Ảnh minh họa.

Dùng vôi để cắt tảo như thế nào hiệu quả?

- Thông thường tảo phát triển quá mức là do dư thừa phospho trong ao nuôi, Nguyên nhân là phospho trong thức ăn tồn tại dưới dạng muối Phyrate và tôm không thể hấp thu được sẽ thải ra môi trường.

- Khi tảo phát triển quá mức đặc biệt là tảo lam, tảo sợi, tảo đỏ thì cần kiểm tra ngay độ đệm (bicacbonat), nếu hệ đệm cao thì chỉ cần thay nước ao vào ban đêm khoảng 30% nước để giảm tảo. Ngược lại, nếu hệ đệm thấp thì có thể xử lý dễ dàng: ngâm vôi nung hoặc vỏ sò lúc 2h chiều, đến khoảng 3h sáng thì mang tạt đều quanh ao với liều lượng 30kg/1000m3 nước, xử lý 2 ngày liên tiếp. Dùng vôi có thể giúp kết tủa giảm hàm lượng Phospho trong ao nuôi nhanh chóng, tảo sau đó cũng giảm xuống rất nhanh, sau khi tảo giảm có thể dùng vi sinh để ổn định tảo sẽ rất hiệu quả.

- Cần chú ý dùng vôi để cắt tảo trong những ao có lót bạt thì sáng hôm sau nên xiphông ngay để tránh trường hợp vôi lắng tụ dưới đáy dễ lên rong nhớt đáy áo.

vi sinh xử lý ao nuôi tôm
EcoClean - Dòng vi sinh xử lý ao nuôi thủy sản hiệu quả của Mỹ. Ảnh: EcoClean.

Giải pháp ổn định tảo với chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản

- Các chế phẩm vi sinh sử dụng có chứa các chủng: Bacillus sp, Lactopacillus,... chúng có khả năng cạnh tranh sinh học với tảo, ngăn cản tảo phát triển quá mức, chính vì thế sau khi làm giảm lượng tảo trong ao bằng cách thay nước hoặc cắt tảo bằng vôi cần phải cấy vi sinh để ổn định tảo.

- Theo thời gian các vi sinh có lợi trong ao sẽ giảm dần và mất tác dụng, vì thế cần phải bổ sung định kỳ các chế phẩm vi sinh vào ao để duy trì sự căn bằng từ đó ngăn cản tảo phát triển trở lại.

- Một điều quan trọng khi sử dụng vi sinh đó là mật độ vi khuẩn có lợi trong sản phẩm, cho nên khi chọn sản phẩm  vi sinh để sử dụng bà con cần chọn từ các nhà cung cấp uy tín để đảm bảo hiệu quả khi sử dụng.

- Quản lý cho ăn chặt chẽ, thường xuyên trộn các loại men tiêu hóa, vitamin C cho tôm để kích thích tiêu hóa, tăng đề kháng và hạn chế thức ăn dư thừa trong ao nuôi. Ngoài ra, có thể kết hợp vi sinh xử lý đáy ao để phân hủy mùn bã hữu cơ, làm sạch nước ngăn chặn tảo độc phát triển, giúp tôm khỏe mạnh sinh trưởng và phát triển tốt.

Lợi ích khi sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản và những điều cần lưu ý


Sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi thủy sản (men vi sinh) là hướng đi có ý nghĩa thực tiễn nhằm bảo vệ môi trường và đảm bảo hiệu quả sản xuất. Từ đó, góp phần đưa nghề nuôi thủy sản phát triển bền vững.

Hai thành phần chính của men vi sinh là vi khuẩn có lợi và các chất dinh dưỡng để nuôi vi khuẩn. Vi khuẩn có lợi được phân lập từ nhiều nguồn khác nhau. Chúng gồm các loài như:  Bacillus sp., Nitrosomonas, Nitrobacter… Chất dinh dưỡng là các loại như đường, muối canxi, muối magiê…

Về hình thức, men vi sinh có 02 dạng, dạng nước và dạng bột (hay dạng viên). Bình thường, dạng bột có mật độ vi khuẩn có lợi cao hơn so với dạng nước. Về chủng loại, men vi sinh có 02 loại, loại dùng để xử lý môi trường (loài vi khuẩn chính là  Bacillus sp. ) và loại trộn vào thức ăn (loài vi khuẩn chính là Lactobacillus).

Một số dòng vi sinh bà con có thể tham khảo như:

Vi sinh xử lý nước ao nuôi thủy sản

Tập hợp các chủng vi sinh được phân lập chuyên biệt để xử lý tảo và làm sạch ao nuôi thông qua cơ chế cạnh tranh thức ăn trong nước. Bên cạnh đó còn có thêm chất phụ gia và hàng tỉ tế bào vi sinh xử lý nước ao nuôi nhằm kích thích tăng trưởng của tôm và cá.

Vi sinh xử lý bùn đáy ao nuôi thủy sản

Là công thức pha trộn độc quyền vi sinh và hỗn hợp của 23 vitamin thiết yếu, kích thích sinh học, các enzyme để xử lý bùn đáy. Giúp bà con xử lý bùn đáy ao hiệu quả, tiết kiệm nhiều chi phí nạo vét, bên cạnh đó còn giúp làm giảm hình thành bùn đáy, loại bỏ khí độc tích tụ trong lớp bùn.

Vi sinh xử lý khí độc Ammonia và khí độc NO2 trong ao nuôi thủy sản

H2S, NO2 là những “sát thủ thầm lặng” luôn tồn tại trong ao nuôi thủy sản và sẵn sàng gây hại cho tôm, cá nuôi bất cứ thời điểm nào. Nhưng, bà con chỉ cần sử dụng EcoClean AM để đánh là có thể xử lý dễ dàng. Công thức pha trộn từ các vi khuẩn tự nhiên được phân lập chuyên biệt (8 loại vi khuẩn kỵ khí tùy nghi) để loại bỏ Ammonia và NO2 hiệu quả (không phải cơ cấu cấy ghép di truyền) của sản phẩm giúp làm giảm BOD, COD và mùi phát sinh từ hoạt động của vi khuẩn kỵ khí. Làm giảm đáng kể chi phí nạo vét và hóa chất cho quá trình xử lý.

Các lợi ích mang lại khi sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản:

1. Làm ổn định chất lượng nước và nền đáy trong ao nuôi tôm, cá.

2. Nâng cao sức khoẻ và sức đề kháng của tôm, cá.

3. Giảm thiểu ô nhiễm môi trường ao nuôi và xung quanh do nuôi thuỷ sản gây nên.

4. Nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn.

Các lợi ích đạt được như trên là do hoạt động tích cực của vi khuẩn qua một hay nhiều cơ chế tác động:

1.  Cạnh tranh mạnh mẽ chất dinh dưỡng, năng lượng và giá thể với các loài vi khuẩn có hại khác và tảo độc.

2.  Chuyển hóa các chất hữu cơ như thức ăn dư, xác tảo, cặn bã thành CO2 và nước; chuyển các khí độc như NH3, NO2 thành các chất không độc như NH4+, NO3–.

3. Hạn chế vi khuẩn có hại trong đường ruột và giúp chuyển hoá hiệu quả thức ăn.

4.  Tiết ra một số chất kháng sinh, enzyme để kìm hãm hay tiêu diệt mầm bệnh.

Để men vi sinh phát huy hiệu quả cao, người nuôi thủy sản phải tuân thủ một số nguyên tắc dùng sau đây:

– Pha loãng men vi sinh bằng nước trong ao nuôi, cho vào xô, thau, sau đó sục khí 4 – 5 giờ đến khi men có mùi chua hay pH giảm thì đem bón.

– Định kỳ dùng trong quá trình nuôi. Thông thường 7 – 10 ngày/lần đối với loại xử lý môi trường và luân phiên sử dụng 5 ngày, sau đó ngưng 5 ngày đối với loại trộn vào thức ăn. Sử dụng cùng lúc với bón phân gây màu nước hay sau khi nước đã lên màu.

– Liều lượng dùng phải theo đúng theo đề nghị của nhà sản xuất.

– Khi môi trường ao nuôi có dấu hiệu hay đang suy giảm chất lượng như hàm lượng khí độc cao (NH3, H2S, NO2…), nước nhiều cặn bã, nước phát sáng thì men vi sinh được sử dụng sớm hơn so với thường ngày với liều lượng tăng gấp 2 lần so với đề nghị.

– Không được sử dụng men vi sinh cùng với các loại hoá chất có tính diệt khuẩn như BKC, thuốc tím, Chlorine, i-ốt, kháng sinh. Đồng thời, không được sử dụng men vi sinh khi các chất trên đang hiện diện trong môi trường nước hay trong thân tôm, cá nuôi.

– Trước khi bón men vi sinh cần cải thiện môi trường ao nuôi bằng các biện pháp như thay nước, bón vôi nâng pH lên 7,5 – 8,5, bón vôi + Dolomite + Khoáng nâng cao độ kiềm.

Men vi sinh sẽ có hiệu quả sau khi sử dụng 2 – 4 ngày, thể hiện qua màu nước và các chỉ tiêu môi trường.

Kết quả thực hiện tại Trung tâm Tập huấn và Chuyển giao công nghệ Nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long: Nuôi tôm thẻ chân trắng bằng quy trình vi sinh, sau 2 đợt nuôi cho kết quả như sau:Tác dụng đối với môi trường ao:
– Ổn định pH (dao động từ 8,0 – 8,3 trong suốt quá trình nuôi),

– Màu nước: tháng thứ nhất độ trong từ 25 – 35cm, sau tháng thứ 2 trở đi thì nước đục.

– Bùn đáy ao, lượng phân tôm, thức ăn thừa và các chất hữu cơ khác giảm 50% so với ao không sử dụng vi sinh định kỳ.

– Giảm Nitrite, Nitrate, giảm mùi hôi của các khí độc, kiểm soát hiệu quả sự kết váng trên bề mặt và bùn đáy ao, tạo môi trường ổn định. Hàm lượng khí độc NH3 < 0,01mg/lít, NH4+ <0,2 mg/lít.

Hiệu quả:

– Tôm phát triển nhanh, năng suất tôm lên đến 20 tấn/ha.

– Kích cỡ tôm sau 75 ngày nuôi đạt: 65 con/kg (15,4 gram/con).

Tóm tắt quá trình sử dụng men vi sinh:

– Trước khi thả giống 2 – 3 ngày: sử dụng vi sinh với liều dùng gấp đôi so với hướng dẫn của nhà sản xuất.

– Tháng thứ nhất: định kỳ 5 ngày đánh 1 lần, với liều dùng của nhà sản xuất.

– Tháng thứ hai: định kỳ 4 ngày đánh 1 lần, với liều dùng của nhà sản xuất.

– Tháng thứ ba trở đi: định kỳ đánh 3 ngày 1 lần, với liều dùng của nhà sản xuất.


Tại sao việc trị bệnh cho tôm thường kém hiệu quả?


Ao tôm là cả gia tài nên khi tôm bệnh người nuôi lo lắng, mất ăn mất ngủ và không tiếc tiền để mua thuốc chữa trị. Nhưng ai nuôi lâu năm đều biết việc trị bệnh cho tôm rất tốn kém và hiệu quả không cao. Nếu gặp những bệnh nguy hiểm như đốm trắng thì chỉ còn cách thu khẩn cấp. Nhiều ao tôm tuy chữa được bệnh nhưng tôm hao hụt nhiều và cuối cùng cũng lỗ. Vậy làm thế nào để đối phó với bệnh tôm? Nên tập trung vào phòng bệnh hay chữa bệnh? Chúng ta hãy cùng nhau làm sáng tỏ vấn đề này.

Dịch bệnh khi thời tiết bất thường

Khác với trâu bò heo gà, nhiệt độ cơ thể tôm không ổn định mà thay đổi theo nhiệt độ môi trường nước. Ao tôm ở ngoài trời nên khi thời tiết bất thường thì người nuôi cũng bất an, tôm trở nên yếu, dễ nhiễm bệnh.

Nếu nắng nóng kéo dài (nhiệt độ nước trên 32oC): Tôm bắt mồi nhanh nhưng thải nhiều phân sống làm nước ô nhiễm. Vi khuẩn có hại hoạt động mạnh thường gây ra dịch bệnh phân trắng.

Vào mùa lạnh (nhiệt độ nước dưới 25oC): Tôm bắt mồi yếu, thậm chí ngưng ăn. Virus hoạt động mạnh thường gây ra dịch bệnh đốm trắng.

Biến đổi khí hậu dẫn đến thời tiết biến động bất thường là một trong những nguyên nhân chính khiến việc nuôi tôm ngày càng khó khăn.

Khó phát hiện khi tôm mới phát bệnh

Tôm, đặc biệt là tôm sú, chủ yếu sống ở đáy ao. Bình thường, người nuôi ít có cơ hội quan sát tôm. Khi vừa thả tôm, màu nước tương đối nhạt nhưng do tôm quá nhỏ nên rất khó quan sát. Từ tháng nuôi thứ 2, tuy tôm đã lớn hơn nhưng do màu nước đậm dần khiến người nuôi rất khó phát hiện lúc tôm chớm bệnh. Lý do là những con tôm yếu và chớm bệnh thường trốn vào khu vực giữa ao, gần khu vực chất thải. Còn đến khi người nuôi phát hiện thấy tôm bơi lội lờ đờ trên mặt nước hay tấp vào bờ, nhá (vó) thì mọi chuyện đã quá muộn. Lúc này, đàn tôm đã bệnh nặng, nhiều con chết đáy, đàn tôm giảm ăn và chết nhanh.

Lây lan nhanh

Đầu tiên, người nuôi không thể vớt bỏ tôm bệnh hay tôm chết ra khỏi đàn tôm (chết đáy). Tôm khỏe buộc phải sống chung với tôm nhiễm bệnh và tôm chết. Xác tôm là thức ăn ưa thích của tôm khỏe khiến mầm bệnh lây lan. Ngoài ra, việc sử dụng máy quạt nước cung cấp ôxy và gom chất thải nhưng cũng nhanh chóng mang mầm bệnh đến khắp nơi trong ao.

Sức đề kháng kém

Tôm là động vật bậc thấp, không có hệ miễn dịch đặc hiệu nên khả năng đề kháng mầm bệnh kém, không có vaccine phòng bệnh. Tôm yếu rất dễ bị bệnh virus (đốm trắng, Taura) và vi khuẩn (Vibrio).

Thuốc không vào được tôm bệnh

Tôm bệnh thường bỏ ăn. Thuốc được trộn vào thức ăn sẽ không vào được cơ thể tôm bệnh. Vì thế, sử dụng thuốc chủ yếu là phòng bệnh cho tôm vừa chớm bệnh hay tôm còn khỏe.

Tác nhân cơ hội đồng loạt tấn công

Khi tôm bệnh, các mầm bệnh cơ hội đồng loạt tấn công khiến tôm yếu rất nhanh. Nghĩa là hầu hết tôm bệnh đều nhiễm vi khuẩn, kí sinh trùng, có thể virus và chịu tác động môi trường xấu (khí độc, ôxy thấp…) nên việc xác định nguyên nhân nào chính gây bệnh tương đối khó khăn.

Như vậy, việc phát hiện tôm bệnh thường đã trễ và việc trị bệnh cho tôm thường kém hiệu quả. Ngoài ra, khi tôm bệnh quá nặng người nuôi thường phải thu hoạch khẩn cấp trong lúc đang sử dụng thuốc và hóa chất, ảnh hưởng đến vấn đề xuất khẩu. Vì vậy, phòng bệnh là vấn đề có ý nghĩa sống còn, quyết định sự thành bại trong nuôi tôm.

Cách xử lý những ao tôm bệnh

Nếu chẳng may ao có tôm bị bệnh, việc phát hiện càng sớm thì cơ hội trị bệnh càng cao và cách ứng phó hiệu quả là:

Tăng cường quạt nước:

Cung cấp nhiều ôxy cho tôm, tạo môi trường thuận lợi cho vi sinh phân hủy chất thải và giải phóng khí độc.

Cắt giảm mạnh thức ăn thừa:

Giảm áp lực chất thải gây ô nhiễm môi trường ao, giảm khí độc tích tụ, giảm mật độ vi khuẩn gây bệnh phát triển.

Sử dụng chế phẩm sinh học

Chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản luôn góp phần quan trọng giúp tăng sức đề kháng cho tôm và đẩy lùi dịch bệnh. Do vậy, lựa chọn những chế phẩm vi sinh học đúng chất lượng, có thương hiệu sẽ hỗ trợ rất nhiều để phòng và trị bệnh cho tôm.

chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản

Chữa bệnh đúng thuốc, đúng liều, đúng thời gian:

Tùy loại thuốc mà sử dụng buổi sáng hay buổi chiều (xử lý vi sinh vào giữa buổi sáng), tùy thời gian đào thải ra cơ thể tôm mà sử dụng bao nhiều lần (sau 6 giờ thì cứ 6 giờ bổ sung 1 lần theo các cữ ăn; sau 12 giờ thì bổ sung vào 1 cữ sáng và 1 cữ chiều; sau 24 giờ thì bổ sung vào 1 cữ ăn trong ngày).

Tăng cường sức đề kháng và phục hồi biến dưỡng cho tôm:

Bổ sung vitamin C, hoạt chất butaphosphan, các vitamin và khoáng chất khác (Grow Shrimp).

Không thay nước từ nguồn bên ngoài:

Tránh lây lan và tạp nhiễm thêm mầm bệnh.

Kết hợp cải thiện chất lượng môi trường:

Đây là việc cấp thiết trong can thiệp xử lý ao tôm bệnh. Sử dụng EcoClean Aqua - Vi sinh xử lý nước ao nuôi tôm để phân hủy chất thải, EcoClean AM - Vi sinh xử lý khí độc; giúp cho nước ao tăng hệ đệm, ổn định độ kiềm, pH và tảo.

Nguồn: Tám Miền Tây t/h.

EcoClean Aqua - Dòng chế phẩm sinh học xử lý nước ao nuôi thủy sản hiệu quả nhất tại Mỹ

vi sinh xử lý nước ao nuôi thủy sản ecoclean aqua

EcoCleanTM Aqua là dòng vi sinh xử lý nước ao nuôi tôm cá hiệu lực cao, mật độ vi sinh cao, dạng bột được chọn lọc đặc biệt để xử lý tảo và làm sạch nước ao nuôi thông qua cơ chế cạnh tranh thức ăn trong nước.

ĐÔI NÉT VỀ ECOCLEAN AQUA - DÒNG VI SINH XỬ LÝ NƯỚC AO NUÔI THỦY SẢN SỐ 1 TẠI MỸ

EcoClean Aqua là sản phẩm hiệu lực cao, mật độ vi sinh cao, dạng bột được chọn lọc đặc biệt để xử lý tảo và làm sạch ao nuôi thông qua cơ chế cạnh tranh thức ăn trong nước. Ngoài ra, sản phẩm còn có thêm chất phụ gia và vi sinh xử lý nước ao nuôi nhằm kích thích tăng trưởng của tôm và cá.

EcoClean Aqua bao gồm các chủng vi sinh được chon lọc đặt biệt, hệ enzyme hoạt tính và chất căn bề mặt. Bởi sự đa dạng của các chủng vi sinh an toàn, tự nhiên và hệ enzyme hoạt tính nên vi sinh xử lý nước ao nuôi EcoClean Aqua là sản phẩm tuyệt vời để làm sạch ao nuôi thông qua việc xử lý tảo, làm giảm mật độ BOD và TSS. Sản phẩm còn giúp là giảm hàm lượng các chất độc tố như NH3, ammonia, H2S và hàm lượng lớn các vấn đề khó giải quyết như tảo, giảm chỉ tiêu BOD và mùi.

Công thức hoạt tính sinh học còn có chứa các chủng vi sinh được chọn lọc để phân hủy các chất ô nhiễm vượt mức trong ao muôi tôm đồng thời giúp tôm và cá chống lại vi sinh vật gây bệnh.

Vi khuẩn an toàn này được chọn lọc sao cho sản xuất ra hệ enzyme tối ưu, đảm bảo phân hủy hiệu quả protein, carbohydrate, cellulose và chất béo. Do đó hệ số tiêu hóa thức ăn của tôm và cá sẽ được cải thiện và giảm lượng chất thải bài tiết. Các chủng vi sinh có lợi sẽ cứ ngụ trong hệ tiêu hóa và dạ dày của tôm cá giúp tăng cường tiêu hóa thức ăn tốt hơn và giảm ảnh thưởng của vi sinh gây bệnh hay độc tố.

vi sinh EcoClean Aqua, tôm cá trúng mùa được giá. Photo by EcoClean.

HỆ THỐNG ỨNG DỤNG

Ao nuôi tôm/cá; Hồ sinh học; Ao tôm; Ao cá Koi; Hồ công viên; Nưới tưới hoa viên; Sân Golf; Ao cá cảnh; Ao cá;

ĐÓNG GÓI

EcoClean Aqua được đóng gói dưới dạng gói 100 gram.

ĐIỀU KIỆN HOẠT ĐỘNG

pH  hiệu quả:  5.5 – 8.5
Nhiệt độ:  20 - 45°C (68-113°F)

BẢO QUẢN VÀ XỬ LÝ

Bảo quản: Nơi khô ráo, thoáng mát
Xử lý: Rửa sạch tay với xà phòng và nước ấm sau khi sử dụng.
Sản phẩm này không độc hại.

MẬT ĐỘ VI KHUẨN

EcoClean Aqua ..................................>2x109 CFU/gram

LỢI ÍCH CỦA SẢN PHẨM

• Giảm mùi
• Tăng khả năng lắng
• An toàn cho môi trường
• Phục hồi và làm sạch nguồn nước
• Thân thiện môi trường, Không chứa hóa chất
• Phân hủy chất bài tiết trong nước
• Giữ lại một phần chất dinh dưỡng hoặc BOD để tảo phát triển
• Tạo điều kiện môi trường tốt cho Tôm và Cá
• Giảm BOD và TSS
• Giảm hình thành bùn đáy ao


Để biết thêm chi tiết sản phẩm, bà con vui lòng liên hệ đến Hotline: 0908.901.955 để được tư vấn miễn phí và nhanh chóng 24/7.


Gây màu nước cho ao nuôi tôm và những lưu ý


Gây màu nước rất quan trọng trong nuôi tôm. Tuy nhiên, trên thực tế, hiệu quả của việc gây màu nước luôn không như mong muốn, có màu nước lợi cho tôm và cũng có màu nước lại gây hại cho tôm. Vì vậy, người nuôi tôm cần nắm vững quy luật thay đổi màu nước.

Nguyên tắc gây màu nước trước khi thả giống

- Nước được gây màu và các chất dinh dưỡng trong phân bón (đạm, lân, kali và các nguyên tố vi lượng khác) nên cân bằng giữa các chất.

- Phân vô cơ (phân hóa học) là sản phẩm hiệu quả tức thì, tuy gây màu nước nhanh nhưng thời gian duy trì ngắn; phân hữu cơ thuộc sản phẩm hiệu quả kéo dài, tuy gây màu nước chậm nhưng thời gian duy trì khá lâu. Hai loại kết hợp sử dụng một cách hợp lý có thể đạt được hiệu quả gây màu nước tốt vừa nhanh mà lại ổn định.

- Khi sử dụng phân vô cơ phải dựa vào tình hình ánh sáng mặt trời, dùng ít nhưng nhiều lần. Ánh sáng mạnh, thời gian chiếu sáng dài thì bón nhiều, ngược lại thì bón ít nhưng bón nhiều lần. Nếu không những ngày trời mưa, sau khi bón phân, phần lớn sẽ chìm xuống đáy ao, có khả năng khiến rêu xanh sinh sôi nhiều.

- Lượng phân bón cơ bản phải đủ, nhất định phải xem xét các chất dinh dưỡng đã có trong ao, chẳng hạn như bùn và kết cấu số lượng các chất dinh dưỡng cơ bản đã bón xuống ao. Nếu bùn đáy nhiều thì bón ít, bùn đáy ít hoặc ao mới thì bón một lượng thích hợp.

- Khi bùn đáy ít, nếu chỉ bón riêng chế phẩm vi sinh (khuẩn sống) thì hiệu quả gây màu tương đối kém, những khuẩn này sau khi xuống ao sẽ không gì có thể phân giải nó thành phân bón được.

- Bón phân sau khi thả giống nên bón ít nhưng nhiều lần, sử dụng ít hoặc thận trọng khi sử dụng phân đạm như phân urê, nếu không thì hàm lượng NH3 có thể sẽ tăng lên.

- Hàm lượng đạm lân thực tế trong nước vượt quá tỷ lệ 10:1 thì tảo Silic rất dễ sinh sôi phát triển mạnh; tỷ lệ đạm lân là 3:1 - 7:1, thậm chí gần 10:1 thì tảo lục dễ phát triển nhiều; nhưng tỷ lệ đạm lân xấp xỉ 1:1 thì các loại tảo như tảo Dinoflagellates hay tảo Flagellates độc hại dễ sinh sôi nhiều.

- Sau khi gây màu nước, độ trong suốt của nước nên nằm trong khoảng 30 cm. Nước màu xanh (xanh nhạt, xanh lục, xanh vàng hoặc màu đậu xanh) ổn định hơn so với nước màu nâu (màu trà, màu nâu sẫm). Muốn có được màu nước ổn định cần điều chỉnh số lượng, chủng loại phân bón.

Lợi và hại trong phương pháp gây màu nước theo thông thường

- Phương pháp gây màu nước thông thường trước tiên là dọn ao, giải độc, sau đó cho nước vào giải độc gây màu nước, trên cơ bản đã gây được màu nước, nhưng một tuần, nhiều nhất là khoảng nửa tháng thì nước lại trong và rớt tảo, quấn tảo. Nếu chỉ sử dụng những sản phẩm có chứa phân hóa học thì tuy phát huy tác dụng nhanh, nhưng thời gian ổn định không dài. Có không ít hộ nuôi sử dụng các phương pháp như: phân gà, vịt, lợn, bột chất lượng kém (vốn gọi là bột vàng), bã lạc, bã đậu, đường gạo thêm vào một ít phân hóa học hoặc các sản phẩm bán trên thị trường để gây màu, hiệu quả cũng rất ổn nhưng 10 - 15 ngày sau lại hết tác dụng. Đó là vì những dinh dưỡng được bón xuống nước không đầy đủ, không cân bằng dẫn đến hiện tượng thiếu hụt một vài chất dinh dưỡng (phần lớn là đạm đủ lân thiếu), một vài loại tảo bị ức chế sinh trưởng, mà cùng lúc lại có những loại tảo khác sinh trưởng dẫn đến quấn tảo.

- Có người sử dụng sản phẩm khuẩn sống (còn gọi là chế phẩm vi sinh hay sinh học) như: Vi khuẩn quang hợp, khuẩn Bacillus, khuẩn Nitrat… một số thấy hiệu quả ngay, một số hiệu quả không rõ rệt, tại sao lại như vậy?

Làm phép so sánh, khuẩn sống giống như nồi cơm điện và điện của chúng ta, các sản phẩm gây màu (như phân gà, đường gạo, bã đậu...) giống như gạo chúng ta bỏ vào nồi, bao nhiêu gạo thì nấu ra bấy nhiêu cơm. Khuẩn sống chủ yếu có tác dụng phân giải và phân giải từ từ, các chất dinh dưỡng bón xuống nước không nhiều hoặc ít bùn, tất nhiên là không đủ điều kiện gây màu, gây màu không đủ khó tránh khỏi nước thay đổi biến chất, đặc biệt là những ao mới, thời kỳ đầu cho ăn ít, chất bài tiết của tôm cũng rất ít, chất dinh dưỡng trong nước ao ít, hiệu quả sử dụng vi khuẩn làm sao có thể duy trì được trong thời gian dài đây? Trừ khi thêm vào các chất có đầy đủ dinh dưỡng vào trong sản phẩm khuẩn sống thông thường.

- “Axit amin gây màu nước”, sản phẩm này cũng phổ biến giống như chất gây màu nước axit amin, dầu gây màu nước axit amin, dịch gây màu axit amin, thành phần chủ yếu ngoài những axit amin phức hợp ra còn có peptit hoạt tính, nhiều vitamin và khoáng chất, thậm chí còn có cả khuẩn phức hợp có ích. Phát huy tác dụng nhanh, hiệu quả tốt, vì axit amin được sử dụng nhanh hơn các protein thông thường, dinh dưỡng phong phú, hiệu quả gây màu cũng duy trì được khá lâu, nhưng các axit amin sau khi phân giải chủ yếu sinh ra đạm, cũng có thể là do thiếu lân, kali hoặc các nguyên tố vi lượng… hoặc là tỷ lệ không cần bằng dẫn đến hiện tượng quấn tảo.

Nguyên nhân gây màu nước thất bại

- Số lượng tảo trong nguồn nước (nước ngầm, nước nghèo dinh dưỡng) phải cho vào ao ít, ví dụ như hồ cao triều, ao lót bạt, ao đất cát… không đủ dinh dưỡng, thiếu các muối dinh dưỡng mà các loại tảo cần để sinh trưởng;
- Sử dụng các thuốc giải độc có tác dụng phụ lớn, tiêu diệt các loại tảo và vi sinh vật, kìm hãm sự sinh trưởng và sự phát triển của nó;
- Nước ao axit;
- Mặc dù bón phân nhưng thiếu một vài loại muối dinh dưỡng hoặc đã mất tác dụng gây màu, các loại tảo cũng không phát triển nổi;
- Trời mưa, không đủ ánh sáng mặt trời hoặc là do nhiệt độ thấp kìm hãm tốc độ sinh sôi phát triển của tảo;
- Các động vật phù du ăn tảo trong nước nhiều (trùng bánh xe, các loại giáp xác chân chèo, Brine Shrimp);
- Trong nước có quá nhiều tảo tạp (Cladophora, Enteromorpha Prolifra, cỏ mương… vẫn gọi là “rêu”) ức chế sinh sôi phát triển của tảo đơn bào.

Đối sách

Tảo là một loại thực vật, bất kỳ loài thực vật nào sinh trưởng phát triển cũng cần có giống, phân, ánh sáng, thiếu một trong ba đều không được, do đó nếu muốn gây màu nước thì phải chuẩn bị ba việc sau đây:

- Giống tảo: Các loại tảo gây màu nước phải khỏe mạnh, đầy đủ chủng loại và cân bằng nhau.
- Phân bón: Dinh dưỡng trong phân bón cân bằng, hiệu quả nhanh và lâu dài đều.
- Ánh sáng: Không có ánh sáng thực vật không thể sinh trưởng phát triển được. Đồng thời các sinh vật có hại trong nước ít, pH, nhiệt độ nước thích hợp.

Trải lòng nuôi tôm mùa mưa lũ


Những cơn mưa liên tục kèm theo nguy cơ lũ lụt là nguyên nhân gây phát sinh dịch bệnh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tôm nuôi. Kinh nghiệm quản lý môi trường ao nuôi trong mùa mưa, lũ là vô cùng quan trọng để góp phần đưa tôm nuôi vượt qua dịch bệnh, phát triển tốt.

Quản lý môi trường

Ổn định pH: Thông thường, pH trong ao tôm ở mức 7,5 - 8,5. Mưa lớn kéo dài, do tính chất axit của nước mưa cộng thêm quá trình rửa trôi phèn từ bờ xuống ao tôm làm cho pH môi trường ao tôm giảm. Do đó, để hạn chế tình trạng này, người nuôi cần theo dõi thông tin thời tiết, bón vôi trước và trong những trận mưa kéo dài. Rải vôi dọc theo bờ ao khi trời mưa với liều lượng 10 kg/100 m2. Nếu pH thấp, sử dụng vôi nông nghiệp CaCO3 liều lượng 10 - 20 kg/1.000 m3 nước ao tùy giá trị pH đo được (chạy quạt để trộn đều nước), xử lý từ từ cho đến khi pH nằm trong ngưỡng cho phép (từ 7,5 trở lên).

Kiểm soát độ kiềm:

Tôm sú có độ kiềm thích hợp là 85 - 130 mg/l; tôm thẻ chân trắng nằm trong khoảng 100 - 150 mg/l. Sau mưa, độ kiềm ao nuôi có xu hướng giảm, vì vậy, cần dùng vôi Dolomite ngâm vào nước ngọt trong 24 giờ, sau đó tạt đều xuống ao vào 8 - 10 giờ đêm với mức 1,655 g vôi Dolomite sử dụng cho cho 1 m3 nước sẽ tăng độ kiềm lên 1 mg/l. Ví dụ: muốn tăng độ kiềm của ao tôm 3.000 m3 từ 80 lên 90 mg/l thì cần 3.000 × 1,655 × (90 - 80)/1.000 = 46,65 kg. Lưu ý, mỗi lần tăng độ kiềm chỉ nên tăng khoảng 10 mg/l, bởi nếu độ kiềm tăng quá nhanh sẽ làm tôm bị sốc, sức đề kháng giảm.

Ngăn chặn nước ao bị đục:

Nguyên nhân làm nước ao tôm bị đục là do các chất hữu cơ, hạt sét bị nước mưa cuốn trôi từ trên bờ xuống ao tôm. Nước đục sẽ làm hạn chế khả năng quang hợp của tảo làm tôm thiếu ôxy, tảo thường tàn đột ngột, tôm bị đen mang, vàng mang do bị những vật chất lơ lửng trong nước bám vào mang tôm. Để khắc phục tình trạng này, có thể sử dụng muối vô cơ như nhôm sunfat (Al2(SO4)3) hoặc  thạch cao để làm trong nước. Sau khi nước giảm đục, cần tiến hành gây màu tảo để tạo môi trường ổn định cho tôm nuôi.

Ngoài ra, khi xuất hiện những cơn mưa lớn cần tăng cường chạy quạt nước để tránh sự phân tầng nhiệt độ, cung cấp thêm ôxy và tăng nhiệt độ nước. Sau những cơn mưa, phải đảm bảo mực nước ao nuôi tôm ổn định ở mức 1,2 - 1,5 m. Khi mực nước ao tôm cao do nước mưa, tiến hành xả bớt lượng nước tầng mặt để duy trì mực nước trong ao, đồng thời tránh làm giảm độ mặn đột ngột, tràn bờ, vỡ cống bọng. Khi mưa chấm dứt vài ngày, thời tiết nắng, tạo điều kiện vi khuẩn có hại phát triển, cần diệt khuẩn để giảm bớt mầm bệnh. Cấy vi sinh lại sau 2 ngày kết hợp với quạt nước, máy bơm, tăng cường hàm lượng ôxy hòa tan, kích thích vi khuẩn có lợi trong ao phát triển, ức chế vi khuẩn có hại, tăng cường phân hủy chất hữu cơ, hạn chế hiện tượng tảo phát triển quá mức.

Sử dụng chế phẩm sinh học

Bổ sung chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản phù hợp là yếu tố không thể thiếu khi nuôi tôm mùa mưa lũ, giúp tôm tăng cường khả năng chống chịu, tăng cường sức đề kháng, phòng các dịch bệnh có thể lây lan,...

Quản lý cho ăn

Khi thời tiết âm u kéo dài, có dấu hiệu sắp mưa cần giảm lượng thức ăn hoặc có thể ngưng cho ăn. Thông thường ở 18 độ C, tôm vẫn có thể bắt mồi nếu nhiệt độ giảm xuống từ từ hoặc đây là nhiệt độ hằng ngày trong mùa lạnh và lượng thức ăn chỉ 10 - 20% so với nhu cầu bình thường. Mỗi khi nhiệt độ giảm đi khoảng 20C thì lượng thức ăn giảm khoảng 30%. Nên kiểm tra nhiệt độ nước trong ao trước khi cho tôm ăn. Tôm ngừng ăn khi nhiệt độ giảm đột ngột từ mức thích hợp (28 - 30 độ C) xuống 22 độ C. Lưu ý, đảm bảo lượng thức ăn không được dư thừa, vì chính nó là nguyên nhân làm ô nhiễm môi trường nước, dẫn đến sự nở hoa của tảo, tăng khí độc…

Bên cạnh đó, khi mưa kéo dài, tôm nuôi có thể bị mềm vỏ, khó lột xác do độ kiềm giảm thấp. Để khắc phục tình trạng này ngoài việc dùng Dolomite thì cần cho tôm ăn thức ăn chất lượng cao, trộn các loại Vitamin C, Vitamin tổng hợp và khoáng chất vào thức ăn hàng ngày để tăng sức đề kháng cho tôm.


Nuôi tôm là nuôi nước


Trong năm 2015, hiện tượng tôm chết vì bệnh hoặc không rõ nguyên nhân trong khoảng 30 - 45 ngày đầu tiên hoặc chậm lớn xảy ra khá phổ biến ở nhiều vùng nuôi tôm trên cả nước. Nếu tôm giống có nguồn gốc rõ ràng, sạch bệnh thì nguyên nhân của các hiện tượng vừa nêu chủ yếu liên quan đến cách thức cải tạo ao hoặc quản lý chất lượng nước. Kinh nghiệm thực tiễn đã khẳng định người nuôi tôm sẽ thành công hơn nếu thực hành được nguyên tắc cốt lõi “nuôi tôm là nuôi nước”.

Để “nuôi” được nước, chúng ta cần hiểu về yêu cầu chất lượng nước ban đầu và diễn biến điển hình của nó trong một vụ nuôi. Hơn nữa, đánh giá chất lượng nước bằng cảm quan chỉ hiệu quả với những người đã có nhiều năm kinh nghiệm. Nếu bạn mới bắt đầu nuôi tôm, cần phải thực hiện một cách nghiêm túc các công đoạn trong quá trình cải tạo ao, dự đoán thời điểm có thể xảy ra sự cố và thường xuyên quan trắc các yếu tố môi trường quan trọng trong suốt quá trình nuôi.

Tôm thẻ chân trắng là loài rộng muối. Nhờ vậy chúng được thả nuôi ở cả 3 vùng nước: mặn, lợ và ngọt. Tuy nhiên, độ mặn chỉ là một trong nhiều yếu tố môi trường cần phải kiểm soát. Không phải nguồn nước cấp nào cũng có tính chất tự nhiên thuận lợi cho việc nuôi tôm. Các yếu tố môi trường cơ bản của nguồn nước ban đầu cần được kiểm tra gồm độ mặn, độ pH, độ kiềm và hàm lượng chất hữu cơ.

Độ mặn phù hợp để nuôi tôm thẻ chân trắng dao động từ 5 – 35 %o. Những vùng có độ mặn thấp hơn 5 %o thường có độ kiềm thấp (20 – 60 mg CaCO3/l), khiến cho pH biến động lớn hoặc không đáp ứng được nhu cầu về khoáng của tôm nuôi. Gặp trường hợp này người nuôi tôm cần bón vôi, bổ sung thêm khoáng tổng hợp và kali (K+). Khi cần nâng nhanh độ kiềm trong ao, ví dụ như sau khi tôm lột xác, nên sử dụng NaHCO3. Độ kiềm của nước trong ao cần phải được duy trì ở mức 80 – 120 mg CaCO3/L.

Để kiểm soát tốt dịch bệnh, độ pH của nước trong ao nuôi tôm nên được duy trì trong khoảng từ 7,2 – 7,8. Biên độ dao động cực đại trong ngày không quá 0,5. Kinh nghiệm sản xuất trong giai đoạn 2013 – 2015 cho thấy nếu kiểm soát pH ổn định trong khoảng này, cơ hội thành công rất cao. Để nâng độ pH, người nuôi tôm có thể dùng vôi. Để giảm độ pH thì đưa mật rỉ đường trực tiếp xuống ao hoặc sục khí với chế phẩm vi sinh tốt khoảng 24 – 36 giờ trước khi sử dụng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng hiệu quả tốt chỉ có nếu ao nuôi được đầu tư đầy đủ hệ thống quạt nước, giúp khuấy đảo và cung cấp đủ oxy.

Hàm lượng chất hữu cơ trong môi trường ao nuôi là yếu tố quan trọng cần được kiểm soát một cách chặt chẽ. Các nguồn nước bị ô nhiễm thường có hàm lượng chất hữu cơ cao, tạo điều kiện cho mầm bệnh phát triển và sẽ tiêu tốn nhiều oxy hòa tan. Giải pháp tốt nhất là sử dụng ao lắng. Khi các chất lơ lửng đã lắng xuống đáy, ta có thể bơm nước vào ao nuôi, chạy quạt liên tục vài ba ngày để các chất hữu cơ hòa tan hoặc chất lơ lửng có kích thước nhỏ có thể phân hủy hoàn toàn rồi hãy xử lý, diệt khuẩn bằng hóa chất. Xử lý nước khi hàm lượng chất hữu cơ còn cao luôn tốn kém hơn và không hiệu quả. Ngoài ra, sau mỗi vụ nuôi, lượng chất hữu cơ tồn tại ở đáy các ao đất là rất lớn. Cần phải cải tạo ao thật kỹ, phơi nắng 3 – 5 tuần để tia cực tím diệt hết khuẩn và các chất hữu cơ được oxy hóa, phân hủy hoàn toàn. Các cơ sở nuôi tôm thành công đều dành từ 6 – 8 tuần để cải tạo ao thật kỹ trước khi vào vụ nuôi chính để có thể nuôi liên tục 2 vụ. Thậm chí, có cơ sở lột cả bạt lót đáy ao và bờ ao để vệ sinh và lót lại trước khi tiến hành cấp nước, xử lý và thả tôm giống.

Nếu người nuôi tôm đã cải tạo ao kỹ, làm đúng qui trình, xử lý nước và tạo môi trường thuận lợi (chạy quạt, ủ phân bón và chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản để gây màu nước, phát triển thức ăn tự nhiên), ngăn chặn các vật trung gian lây nhiễm mầm bệnh vào ao thì tỉ lệ sống và tốc độ phát triển của tôm nuôi trong tháng đầu tiên thường chỉ phụ thuộc vào chất lượng tôm giống và mức độ chăm sóc mà cụ thể là cách cho ăn và quản lý thức ăn.

 Ngoại trừ các diễn biến bất thường của thời tiết, hầu hết các sự cố gặp phải trong ao nuôi ở các tháng nuôi thứ 2, 3 và sau đó đều có liên quan đến việc quản lý hàm lượng chất hữu cơ tích lũy trong môi trường. Ở tháng nuôi đầu, do tổng khối lượng của đàn tôm không lớn nên lượng thức ăn đưa xuống ao không nhiều. Thức ăn, nếu có dư thừa hoặc do tôm đột ngột giảm bắt mồi, cũng khó gây hậu quả nghiêm trọng và sẽ bị phân hủy để trở thành nguồn dinh dưỡng cho sự phát triển của tảo và các sinh vật khác trong ao. Tuy nhiên, theo thời gian và sự phát triển của tôm, lượng thức ăn đưa xuống ao từ tháng thứ 2 trở đi mỗi lúc một nhiều. Nguy cơ ô nhiễm là thường trực do thức ăn thừa, xác lột của tôm, do phân và các chất bài tiết mà tôm thải ra. Môi trường nước trở nên phì dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi cho tảo phát triển, làm cho độ pH biến động mạnh theo chiều hướng bất lợi. Sau đó tảo tàn có thể tiêu hao oxy hòa tan, sản sinh ra các độc tố gây yếu hoặc chết tôm nuôi. Nước mất màu, hàm lượng oxy hòa tan giảm mạnh, các chất khí độc bùng phát gây stress cho tôm. Lượng chất hữu cơ trong môi trường càng lớn, nguy cơ nhiễm độc NH3, NO2- hay H2S càng cao và có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Theo chu trình chuyển hóa, sau sự cố về tảo, sẽ là sự cố về NH3 hoặc H2S. Tiếp theo sẽ là sự cố về NO2-.

Để kiểm soát lượng chất hữu cơ, trước hết người nuôi tôm cần đầu tư hệ thống quạt nước, sục khí phù hợp và nâng dần công suất lên theo thời gian nuôi. Một ao nuôi tôm thẻ chân trắng mật độ 150 con/m2 theo thiết kế chuẩn, có diện tích khoảng 1.600 – 2.000 m2, muốn đạt hiệu quả cần được trang bị từ 4 – 5 giàn quạt nước, có công suất từ 2 – 3 mã lực/giàn. Trong tháng nuôi đầu tiên, chỉ cần chạy liên tục 1 giàn vào ban ngày và 2 giàn vào ban đêm là đủ. Nhưng từ tháng thứ 2 thì phải chạy liên tục 2 giàn vào ban ngày và toàn bộ vào ban đêm, đồng thời chuyển sang cho ăn bằng máy tự động để lượng thức ăn đưa vào môi trường duy trì ở mức thấp nhưng liên tục trong ngày. Nếu giám sát tốt (kiểm tra nhá, lặn xem đáy ao) thì sẽ hạn chế được nguy cơ cho ăn thừa. Từ tháng nuôi thứ 3 trở đi, nếu tôm phát triển tốt, lượng tôm trong ao nhiều, thì cần phải bổ sung thêm quạt nước hoặc sục khí đáy, đặc biệt là vào ban đêm hoặc những thời điểm tôm đang lột xác. Giàn quạt cần được bố trí sao cho có thể giúp gom tụ chất thải vào khu vực giữa ao để có thể siphon hết chất thải. Tần suất siphon tăng dần theo thời gian, từ 5 – 7 ngày/lần ở tháng thứ 1, đến 2 – 3 ngày/lần ở tháng thứ 2 và hàng ngày ở tháng thứ 3.

Tiếp theo, cần sử dụng chế phẩm vi sinh loại tốt hàng ngày để cải thiện tốc độ chuyển hóa của vật chất trong ao, giúp cho môi trường được sạch và ổn định. Sự phát triển của các lợi khuẩn có trong chế phẩm vi sinh còn ức chế các vi sinh vật gây bệnh. Để giảm chi phí và tăng hiệu quả sử dụng, người nuôi tôm cần tìm hiểu và thực hành qui trình nuôi tăng sinh khối lợi khuẩn đơn giản (Hình 2, xem chi tiết ở trang 73 tài liệu “Thực hành nuôi tôm thẻ chân trắng hiệu quả, bền vững” của Skretting Vietnam 2015). Lưu ý là hiệu quả của lợi khuẩn chỉ có nếu hàm lượng oxy hòa tan của nước trong ao được duy trì ở mức cao và môi trường nước được khuấy đảo thường xuyên.


Hình 4: Tôm nuôi phát triển tốt sau 43 ngày thả trong môi trường giàu oxy, chất lượng nước được quản lý tốt.

Về cơ bản, người nuôi cần phải dự báo tốt diễn biến của môi trường nước trong ao nuôi hoặc các thay đổi bất thường của thời tiết để có biện pháp can thiệp trước khi sự cố xảy ra hoặc can thiệp kịp thời khi chúng mới nảy sinh. Một khi môi trường nước ao đã trở nên bất lợi thì giải pháp tốt nhất là thay nước, kể cả sử dụng nguồn nước chưa kịp xử lý nếu việc thay nước là khẩn cấp nhằm làm giảm ngay hàm lượng của các chất gây ô nhiễm hoặc mật độ tác nhân gây bệnh. Làm tốt những điều nêu trên và luôn tâm niệm “nuôi tôm là nuôi nước”, chắc chắn thành công sẽ sớm đến và đến nhiều hơn với bạn.

PGS TS Hoàng Tùng

Vai trò của đất nền đáy ao trong nuôi trồng thủy sản?


Nền đáy ao nuôi thủy sản là nơi chứa đựng các sản phẩm tồn dư do trong các thành phần chúng ta đưa xuống như vôi, thuốc, hóa chất, phân tôm cá, xác tôm cá chết,... trong quá trình nuôi. Các sản phẩm hữu cơ theo thời gian, do sự rửa trôi, xói mòn, rò rỉ tích tụ dần xuống đáy ao nuôi. Cũng chính nơi đây quá trình hấp thu, phân giải, phân hủy vật chất hữu cơ diễn ra hết sức mạnh mẽ, các loại khí độc như H2S, NO2  được sinh ra nhiều hơn và liên tục hơn với cường độ mạnh dần qua các tháng nuôi. Như vậy, nền đáy ao bị ô nhiễm do công tác cải tạo, xử lí ao trước mỗi vụ nuôi còn xem nhẹ hoặc tiến hành sơ sài, công tác nạo vét bùn đáy không đạt yêu cầu.

Việc lấy nước trực tiếp từ sông rạch vào thẳng ao nuôi không qua hệ thống ao lắng lọc, ao xử lí. Lạm dụng quá mức trong việc dùng vôi, thuốc, hóa chất trong việc xử lí dịch bệnh, nguồn nước, môi trường. Chưa quan tâm và đánh giá đúng vai trò của màu nước trong ao nuôi, dẫn đến tình trạng tảo không phát triển hoặc phát triển quá mức, gây hiện tượng nở hoa và tàn lụi dần, đóng góp vào nền đáy hàm lượng chất hữu cơ ô nhiễm đáng kể. Cho ăn quá dư thừa, quản lí việc cho ăn còn thiếu kinh nghiệm, không bố trí việc cho tôm, cá ăn hợp lí như thời điểm cho ăn, địa điểm cho ăn, sử dụng loại thức ăn không đúng cho từng độ tuổi và khả năng tăng trưởng của cá. Hiện tượng sạt lở, xói mòn thường xuyên xảy ra nhất là vào mùa mưa.

Khi nền đáy ô nhiễm xuất hiện những ảnh hưởng gì đến vật nuôi thủy sản?

Quá trình phân hủy vật chất hữu cơ ở đáy ao diễn ra mạnh, có rất nhiều O2 trong ao được lấy để sử dụng cho quá trình này. Do vậy, ao dễ thiếu oxy cục bộ dưới đáy. Cùng với quá trình thiếu hụt dưỡng chất tại ao, nhiều khí độc được sinh ra như NH3, H2S, NO3. Ngoài việc những khí này rất độc với tôm cá nuôi, những khí này còn tác động làm cho độ phèn (pH), hệ đệm Bicarbonat... tăng giảm thất thường trong ngày, giữa sáng và chiều. Do những thay đổi này, cá tôm nuôi trong ao phải thường xuyên thay đổi, điều tiết, cân bằng nên dễ bị sốc. Mặt khác do độ phèn bất ổn, nên quá trình quang hợp tạo khí oxy diễn ra rất hạn chế, nhưng quá trình hô hấp tạo khí CO2 vào ban đêm vẫn diễn ra bình thường, cùng với qúa trình phân hủy hữu cơ nơi đáy ao đưa tới việc gia tăng nhanh chóng hàm lượng khí cacbonic(CO2), gây khó khăn cho quá trình hô hấp của vật nuôi thủy sản trong ao, ảnh hưởng trực tiếp đến tỉ lệ sống.

Tôm cá nuôi trong ao thường tăng trưởng chậm, còi cọc, dễ bệnh và thời gian nuôi kéo dài. Những tác động này còn ảnh hưởng kéo dài đến vụ nuôi sau, gây khó khăn trong việc gây màu nước và giữ màu nước. Môi trường đáy ao dơ bẩn không còn là nơi an toàn để vật nuôi thủy sản trong ao sinh sống, chúng dần chuyển lên tầng nước trên và gây nên sự tâp trung cục bộ với mật độ dày. Ngoài những biện pháp tích cực thực hiện đồng bộ ngay từ công đoạn cải tạo và xử lí ao, sên vét bùn đáy, xảm mọi, gia cố bờ bọng...

Việc hạn chế tối đa dùng các loại thuốc, hóa chất và đặc biệt là việc quản lí thức ăn như hàm lượng, thành phần các chất trong thức ăn, lượng thức ăn hàng ngày sử dụng, số lần cho ăn trong ngày, vị trí cho ăn. Đặc biệt lưu ý đến thời điểm môi trường có những thay đổi bất thường, thời điểm vật nuôi có những thay đổi về mặt sinh lí như tôm lột, cá bệnh... cần phải điều chỉnh lại lượng thức ăn cho hợp lí. Trong nuôi trồng thủy sản ở dạng bán thâm canh, thâm canh, việc sử dụng máng ăn (sàng ăn) cần được quan tâm và thực hiện nghiêm túc, đây là cơ sở vững chắc giúp người nuôi thủy sản đánh giá chính xác mức độ sử dụng thức ăn hàng ngày của vật nuôi, tình trạng sức khỏe của vật nuôi, tốc độ tăng trưởng của vật nuôi nhằm điều chỉnh cho phù hợp với thực tế tại ao, tránh cho ăn theo dạng quán tính.

Các mô hình nuôi thủy sản cần mạnh dạn đưa vào hệ thống nuôi của mình ao lắng lọc, ao xử lý nước thải và khai thác tối đa vai trò của các loại ao này. Định kỳ hàng tuần, nhất là từ tháng nuôi thứ 2 trở đi nên dùng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản, men vi sinh bón xuống ao giúp phân giải và giảm thiểu các chất độc hại, ngăn chặn sự phát tán của dịch bệnh, tăng cường hệ miễn dịch và sức đề kháng của vật nuôi. Từ tháng nuôi thứ 2, việc thay nước dựa vào chất lượng nguồn nước ao nuôi, điều chỉnh lượng nước thay cho phù hợp. Sự thành công các mô hình nuôi thủy sản gắn liền với việc quan tâm và chủ động trong việc ổn định nền đáy ao nuôi theo hướng hợp lí, hướng các mô hình nuôi thủy sản thực sự ổn định, bền vững và hiệu quả.

Một số nguyên nhân tác động xấu đến nền đáy ao nuôi

-   Lấy nước trực tiếp từ sông rạch vào thẳng ao nuôi không qua hệ thống ao lắng lọc, ao xử lí.
-   Lạm dụng việc dùng vôi, thuốc, hóa chất trong việc xử lí dịch bệnh, nguồn nước, môi trường.
-   Tình trạng tảo không phát triển hoặc phát triển qúa mức, gây hiện tượng nở hoa và tàn lụi dần, đóng góp vào nền đáy hàm lượng chất hữu cơ ô nhiễm đáng kể.
-   Cho ăn quá dư thừa, quản lí việc cho ăn còn thiếu kinh nghiệm, không bố trí việc cho tôm, cá ăn hợp lí.
-   Hiện tượng sạt lở, xói mòn thường xuyên xảy ra nhất là vào mùa mưa.

Làm sao để xử lý đáy ao hiệu quả?

Để xử lý bùn đáy ao hiệu quả, các chuyên gia khuyên bà con nên sử dụng men vi sinh xử lý bùn đáy ao nuôi thủy sản EcoClean Sludge Reducer của Mỹ. Đây là sản phẩm bao gồm hàng tỉ tế bào được phân lập chuyên biệt cho xử lý bùn đáy ao nên sẽ mang lại hiệu quả cao hơn so với các loại men vi sinh "đa năng" trên thị trường.

Cụ thể, E. Sludge Reducer là một công thức pha trộn vi sinh và hỗn hợp của 23 vitamin thiết yếu, kích thích sinh học, các enzyme để xử lý bùn đáy. Sản phẩm giúp tiết kiệm chi phí nạo vét và giảm hình thành bùn đáy, loại bỏ khí độc tích tụ trong lớp bùn.

Mọi chi tiết bà con vui lòng liên hệ đến Hotline: 0908.901.955 để được tư vấn miễn phí, hoặc gửi thư về địa chỉ admin@moitruongdeal.com.

vi sinh xử lý bùn đáy ao nuôi thủy sản


EcoClean AM - Dòng vi sinh chuyên xử lý khí độc NO2 và H2S trong ao nuôi thủy sản

vi sinh xử lý khí độc trong ao nuôi thủy sản ecoclean am

EcoClean AM là công thức pha trộn của các vi khuẩn từ tự nhiên, được phân lập và chọn lọc (không phải cơ cấu cấy ghép di truyền) để loại bỏ Ammonia và các tạp chất hữu cơ gây mùi từ nguồn phát thải và hồ sinh học. EcoClean AM là sự phối trộn của 8 loài vi khuẩn kỵ khí tùy nghi, điều này làm cho sản phẩm hiệu quả trên một loạt các chất nền khác nhau và điều kiện môi trường khác nhau.

VI SINH XỬ LÝ KHÍ ĐỘC H2S VÀ NO2 TRONG AO NUÔI THỦY SẢN - ECOCLEAN AM

EcoClean AM là công thức pha trộn của các vi khuẩn từ tự nhiên, được phân lập và chọn lọc (không phải cơ cấu cấy ghép di truyền) để loại bỏ Ammonia và các tạp chất hữu cơ gây mùi từ nguồn phát thải và hồ sinh học. EcoClean AM là sự phối trộn của 8 loài vi khuẩn kỵ khí tùy nghi, điều này làm cho sản phẩm hiệu quả trên một loạt các chất nền khác nhau và điều kiện môi trường khác nhau.

Các vi khuẩn trong vi sinh xử lý khí độc EcoClean AM hoàn toàn chỉ tác dụng trên chất nền hoại sinh và không sống. Ứng dụng EcoClean AM trong điều kiện hiếu khí sẽ kết hợp làm giảm B.O.D, C.O.D và mùi phát sinh từ hoạt động của vi khuẩn kỵ khí. Bằng cách thực hiện một quá trình giảm chất ô nhiễm hiệu quả hơn, EcoClean AM hỗ trợ giảm đáng kể việc nạo vét và hóa chất sử dụng cho quá trình xử lý.

ƯU ĐIỂM ECOCLEAN AM

- Chuyển hóa khí độc nhanh sau 2 đến 3 lần tạt vi sinh, đặc biệt là NH3, không cần sử dụng Yucca và Zeolite.

- Cải tạo bùn bã hữu cơ cực mạnh, giúp kiểm soát khí độc, không cho khí độc phát sinh khi sử dụng từ đầu đến cuối vụ nuôi.

- Sử dụng EcoClean AM  thay Yucca và Zeolite để xử lý NH3 trong suốt vụ nuôi.

- Khuyên dùng : Nên sử dụng EcoClean AM ngay từ đầu vụ để kiểm soát được khí độc.

QUY TRÌNH XỬ LÝ KHI KHÍ ĐỘC PHÁT SINH

Trong trường hợp khí độc phát sinh, tiến hành theo các bước sau đây để có thể làm giảm khí độc, đặc biệt là khí NO2:
- Bước 1: Tiền hành thay khoảng 30% lượng nước, có thể thay chậm để tránh sốc Tôm.
- Bước 2: Giảm 30-50% lượng thức ăn để tránh thức ăn dư thừa rơi xuống đáy ao, làm phát sinh thêm khí độc.
- Bước 3: Chạy quạt 24/24 để tạo ra Oxy, giúp thúc đẩy nhanh quá trình Nitrat hóa (Nitro Bacter).
- Bước 4: Đánh vi sinh EcoClean AM với liều lượng 100g/1.000m3, 2 ngày đánh 1 lần, đánh liên tục 4 lần.
- Bước 5: Sử dụng EcoClean AM đến ngày thu hoạch để tránh khí độc phát sinh thêm lần nữa

Ngoài ra, trong quá trình xử lý khí độc, bổ sung thêm mật rỉ đường hoà với nước và tăng cường đánh Vitamin C, có tác dụng thúc đẩy quá trình chuyển hoá NO2 -> NO3.

Chú ý: Quá trình Nitrate hóa (giải phóng khí NO2 ) có thể diễn ra chậm vì một trong những lý do sau:
1. Ao cung cấp không đủ Oxy để Nitrobacter phát triển và chuyển hóa NO2 -> NO3
2. Không sử dụng Mật rỉ đường trong quá trình gây vi sinh làm cho NitroBacter phát triển không tối ưu, dẫn đến hiệu quả chuyển hóa kém
3. Lượng bùn đáy ao quá nhiều, làm tích tụ nhiều khí độc dẫn đến lượng chuyển hóa không đủ để giải phóng hết lượng khí độc phát sinh hàng ngày

Khuyên dùng: Sử dụng EcoClean AM ngay từ đầu vụ nuôi để kiểm soát và phân giải được tốt lượng bùn bã đáy ao, tránh để đến khi khí độc phát sinh mới xử lý.

TÍNH CHẤT ĐIỂN HÌNH CỦA SẢN PHẨM 

- Hình thức: Dạng bột
- Màu:  Trắng mịn
- Mùi:  Không
- Thời hạn sử dụng:  2 năm
- Chất mang:  Muối tinh
- Mật độ vi khuẩn:  2 tỉ CFU/gr

ĐIỀU KIỆN HOẠT ĐỘNG 

- pH  hiệu quả:  5.5 – 8.5
- Nhiệt độ:  8 - 45°C

QUI CÁCH ĐÓNG GÓI 

EcoClean AM  được đóng gói dạng 1 kilogram, hoặc gói 100 gram

BẢO QUẢN VÀ XỬ LÝ   

- Bảo quản: Nơi khô ráo, thoáng mát
- Xử lý: Rửa sạch tay với xà phòng và nước ấm sau khi sử dụng.
- Sản phẩm này không độc hại.

MẬT ĐỘ VI KHUẨN

EcoClean AM..................................>2x109 CFU/gram


LỢI ÍCH CỦA SẢN PHẨM

• Phá vỡ NH4 thành Nitơ và Hydro
• Vi khuẩn tiêu thụ nitơ và sử dụng nó cho các hoạt động phát triển của chúng
• Hydro được oxy hóa và trở thành một phần của phân tử nước

EcoClean AM phá vỡ NH4 thành các yếu tố cốt lõi của nó, hiệu quả giảm mùi và giảm nồng độ amoniac trong nước thải đến mức chấp nhận được. Ngoài ra, đây là sản phẩm rất lý tưởng để sử dụng trong nhà máy có nguồn phát thải giàu ammonia và nước rỉ từ bãi chôn lấp rác.

ĐỐI VỚI MÔI TRƯỜNG AO NUÔI THỦY SẢN

Trong quá trình nuôi, Tôm chỉ hấp thu được khoảng 30% lượng đạm có trong thức ăn, phần còn lại sẽ rớt đáy và tích lũy ở lớp bùn đáy tạo nên lượng ô nhiễm cực kỳ lớn. Quá trình chuyển hóa đạm diễn ra qua nhiều bước, do nhiều nhóm vi sinh vật tham gia nhưng quá trình hình thành khí độc NH3 nhanh hơn tốc độ chuyển hóa NH3 thành các chất không độc, dẫn đến sự tích lũy NH3 kéo theo NO2 ngày càng tăng.

EcoClean AM là Men vi sinh được làm để chuyên xử lý khí độc, ổn định môi trường ao. Với các thành phần đặc biệt gồm có Nitrosomonas SP & Nitrobacter SP có trong EcoClean AM giúp chuyển hóa khí độc với cơ chế:

- NH3 (độc) sẽ được nhóm vi khuẩn Nitrosomonas sp chuyển hóa thành NO2- (rất  độc), gọi là quá trình Nitrite hóa.

- NO2- tiếp tục được nhóm vi khuẩn Nitrobacter sp chuyển hóa thành NO3- (không độc),  gọi là quá trình Nitrate hóa và đây là giai đoạn cuối của quá trình chuyển hóa.


Để biết thêm chi tiết sản phẩm, bà con vui lòng liên hệ đến Hotline: 0908.901.955 để được tư vấn miễn phí và nhanh chóng 24/7.

Chủ động phòng trị dịch bệnh trên tôm nuôi


Trước tình hình dịch bệnh trên tôm nuôi thương phẩm ngày càng diễn ra phức tạp, gây thiệt hại lớn tại các vùng nuôi tôm trọng điểm trên cả nước, vừa qua, tại Nha Trang, Tổng cục Thủy sản đã phối hợp với Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và Đại học Nha Trang tổ chức Hội thảo khoa học “Tình hình dịch bệnh trên tôm nuôi và biện pháp phòng trị” nhằm đưa ra những giải pháp phòng trừ dịch bệnh trên tôm nuôi.

Chủ động phòng trị dịch bệnh trên tôm nuôi

Theo báo cáo của Tổng cục Thủy sản, xuất khẩu thủy sản 5 tháng đầu năm 2017 của nước ta đạt kim ngạch 2,47 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2016, trong đó xuất khẩu tôm đạt 1,03 tỷ USD, chiếm 41,9%. Tuy nhiên, kết quả điều tra 5 tháng đầu năm 2017 cho thấy, diện tích tôm trên cả nước bị bệnh đốm trắng là 1.656,2ha, chiếm khoảng 14,5% diện tích thiệt hại, trong đó tỉnh Cà Mau có diện tích bị bệnh đốm trắng lớn nhất (chiếm 24,4% tổng diện tích bị bệnh của các tỉnh), sau đó đến tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Bến Tre và các địa phương khác. Đối với bệnh hoại tử gan tụy, diện tích bị bệnh là 1.557ha, chiếm khoảng 13,6%, trong đó tỉnh Bạc Liêu có diện tích bị bệnh lớn nhất (chiếm hơn 25,7% tổng diện tích tôm bị bệnh), tiếp đó là các tỉnh Sóc Trăng, Kiên Giang, Trà Vinh... Ngoài ra, thời gian qua tôm nuôi cũng xuất hiện các bệnh khác như đỏ thân, bệnh còi, bệnh phân trắng…

Tại Hội thảo, PGS - TS Trang Sĩ Trung (Hiệu trưởng Trường ĐH Nha Trang) cho biết, tôm nuôi hiện nay ngày càng phát sinh nhiều bệnh nguy hiểm, chính vì vậy việc ngăn chặn hiệu quả các loại dịch bệnh trên tôm là nhiệm vụ quan trọng quyết định đến đời sống của hàng vạn người nuôi trồng thủy sản và kim ngạch xuất khẩu. Theo các chuyên gia, bà con ngư dân, chủ trang trại muốn tránh thiệt hại cần điều trị đúng bệnh cho tôm nuôi. Để phòng trị bệnh hoại tử gan tụy (gọi tắt là AHPND), biện pháp hàng đầu là dùng dầu của các loài thực vật như Lavandula, Pinus sylvestris, Viola odorata, Cosos nucifera... trộn với thức ăn. Hỗn hợp dầu thực vật này đã được kiểm chứng cho thấy kiểm soát tốt bệnh AHPND. Bên cạnh đó, để phòng và trị bệnh cho tôm nuôi hiệu quả, cần thay thế thuốc kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản, bổ sung các chất khoáng và prebiotic trong thức ăn của thủy sản nuôi…  Cùng với việc tăng cường phòng, trị bệnh tốt cho tôm, Trung tâm Khuyến nông quốc gia và các nhà khoa học khuyến cáo người nuôi tôm nên áp dụng các mô hình hiệu quả như mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng theo VietGAP, mô hình nuôi tôm theo công nghệ Biofloc, mô hình nuôi luân canh tôm sú - rong câu...

Tổng cục Thủy sản cũng yêu cầu các địa phương cần phổ biến, hướng dẫn cho người nuôi lựa chọn tôm giống có nguồn gốc rõ ràng, được kiểm dịch và có chất lượng tốt; áp dụng quy trình nuôi theo 2 giai đoạn (vèo giống); ứng dụng các mô hình nuôi thành công theo công nghệ mới; thực hiện ương/vèo giống (20-25 ngày) để có cỡ giống lớn thả nuôi thương phẩm cho tất cả các hình thức nuôi.

Trong đó đối với vùng nuôi tôm quảng canh và quảng canh cải tiến, nếu người dân không có điều kiện để ương/vèo, địa phương cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp ương/vèo thành giống lớn trước khi xuất bán cho người nuôi để đảm bảo mùa vụ và hiệu quả sản xuất. Đồng thời, các địa phương cũng cần tăng cường quản lý, giám sát dịch bệnh tại các cơ sở ương dưỡng tập trung để kiểm soát được chất lượng con giống và dịch bệnh. Tập thể, cá nhân nuôi tôm cần thực hiện “3 không”: Không giấu dịch, không xả nước thải chưa qua xử lý ra môi trường và không xả bỏ tôm chết, tôm bệnh ra ngoài môi trường.

Nếu bà con cần tư vấn sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản hãy liên hệ ngay Đường dây nóng: 0908.901.955 để được tư vấn nhanh chóng và chính xác.


Giải pháp mới điều trị bệnh đốm đen trên tôm thẻ chân trắng


Những đốm đen khó coi có thể xuất hiện trên thân tôm, tôm nguyên liệu không phải là hư hỏng, mà là do một en-zim sản sinh tự nhiên. Trong khi tôm nhiễm bệnh đốm đen hoàn toàn có thể ăn được, người tiêu dùng dứt khoát sẽ từ chối loại tôm này.

Ngành tôm chủ yếu sử dụng một trong hai phương pháp điều trị để kiểm soát bệnh đốm đen (melanosis): bột natri metabisulfite và 4-hexylresorcinal. Loại thứ hai là một phương pháp xử lý mới hơn, và theo một số phương diện thì tốt hơn, vì bột natri metabisulfite được sử dụng rộng rãi hơn nên rẻ hơn, nhưng mang một số nguy cơ đối với những người thực hiện việc xử lý tôm cũng như đối với một số người tiêu thụ tôm.

Sulfites là một chất bảo quản thông thường được sử dụng trong rượu vang và trong thịt xông khói, để giữ cho màu hồng hấp dẫn không bị chuyển sang màu nâu. Trước đây, chất này cũng được sử dụng cho rau diếp làm món xa-lát trong các nhà hàng, đặc biệt là khi món xa-lát trở nên phổ biến, cho đến khi Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) cấm sử dụng chất này với trái cây và rau quả tươi vào năm 1986. Đây là phản hồi đối với đơn kiến nghị của một nhóm người tiêu dùng, Trung tâm Khoa học vì lợi ích Cộng đồng, nhóm người đã muốn có một lệnh cấm trên phạm vi rộng hơn, do 13 người chết liên quan đến hóa chất này cho đến thời điểm đó.

Sulfites an toàn đối với hầu hết mọi người. Nhưng một số người, chủ yếu là người mắc bệnh hen, bị phản ứng dị ứng. Những người này phải cẩn thận tránh các loại thực phẩm được xử lý bằng sulfites, bao gồm rượu, trái cây sấy khô, một số sản phẩm thịt bảo quản - và tôm.

Theo FDA, những người nhạy cảm với sulfites chiếm khoảng 1% dân số - tương ứng với khoảng 3,2 triệu người Mỹ. Cơ quan này yêu cầu các thực phẩm được xử lý phải được dán nhãn về sự an toàn của thực phẩm nhưng nhãn hiệu có thể khiến những người khác không mua, vì nhãn cảnh báo có thể được xem là chất lượng kém ngay cả đối với những người không có phản ứng với sulfites. Đây là lý do chính để phát triển một phương pháp điều trị thay thế không gây dị ứng và không yêu cầu nhãn như vậy.

Các hợp chất hữu cơ 4-hexylresorcinal được sử dụng trong thuốc điều trị các bệnh về họng và kem dưỡng da (bao gồm cả sản phẩm Neutrogena), nhưng nó cũng liên kết và vô hiệu hóa các en-zim gây nên tình trạng đốm đen ở tôm. Có hai loại chính có sẵn để sử dụng với tôm là EverFresh và PrawnFresh.

Liên minh châu Âu, Canada, Nam Phi, Australia và Trung Quốc đều chấp thuận 4-hexylresorcinal như là một chất trợ giúp chế biến. Ở Mỹ, Mỹ có trạng thái “được công nhận là an toàn (GRAS)” của FDA. Tuy nhiên, Nhật Bản, một trong những thị trường tiêu thụ tôm lớn nhất thế giới, chưa chấp thuận việc sử dụng chất này - rõ ràng vì không có đơn nào xin phê duyệt.

Ngoài các vấn đề về dị ứng và các nhãn cảnh báo, 4-hexylresorcinal có một số lợi thế khác, cũng như một vài bất lợi. Natri metabisulfit có thể gây kích ứng mắt và mũi của công nhân khi xử lý tôm và có thể sản sinh khí sulfur dioxide khi tiếp xúc với nước, có thể gây tử vong cho người lao động trong không gian hạn chế của khoang tàu.

Theo một nghiên cứu năm 1993 của Đại học Y khoa Texas ở Galveston, sản phẩm natri có thể phản ứng trong điều kiện nhất định với nước và axit từ thân tôm để tạo ra sulfur dioxide. Lực lượng Cảnh sát biển Hoa Kỳ cho biết trong khoảng từ năm 1970 đến năm 1993, việc sử dụng hóa chất trong những khoang thuyền tôm không được thông gió trong các vùng nước nóng trong những tháng nóng của năm khiến 11 người chết và 32 người bị thương. Đây không phải là mối nguy với 4-hexylresorcinal.

Bất lợi của 4-hexylresorcinal chủ yếu là chi phí cao hơn. Một nghiên cứu năm 2006 của Sở Kỹ nghệ sơ cấp và Thuỷ sản Queensland ở Australia đã chỉ ra chi phí cho việc nhúng 1 kg tôm chế biến trong thời gian 60 giây vào sodium metabisulfite là 0,026 AUD (0,019 USD, 0,017 EUR), trong khi đó, với thời gian khuyến nghị là 2 phút - chi phí sử dụng EverFresh là 0,128 AUD (0,01 USD, 0,009 EUR). Việc ngâm tôm trong 24 giờ cho hiệu suất chi phí tốt hơn, nhưng có thể dẫn đến dư lượng cao hơn.

Theo: HNN, Tổng cục Thủy sản (Theo seafoodsource)

Hiệu quả và giải pháp phát triển bền vững mô hình nuôi tôm-lúa


Nuôi tôm-lúa đã là nghề góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho nông dân nhiều vùng ven biển của đồng bằng sông Cửu Long. Hiện tại, hình thức nuôi chủ yếu là luân canh 1 vụ tôm- 1 vụ lúa. Diện tích sản xuất luân canh tôm-lúa trong khu vực tăng nhanh, đến nay ước đạt 160.000 ha, diện tích tiềm năng trên 200.000 ha, năng suất bình quân đạt từ 320-500 kg/ha, phần lớn tập trung tại các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau. Bạc Liêu, Tiền Giang, Sóc Trăng, Bến Tre…

Mô hình nuôi tôm- lúa mang lại hiệu quả kinh tế cao so với độc canh cây lúa trên cùng diện tích, trong thời gian qua đã phát triển khá ổn định và thể hiện tính bền vững. Năng suất nuôi được cải thiện qua từng năm do người dân đã có nhiều kinh nghiệm và áp dụng một số tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Theo đánh giá của các tỉnh và các cơ quan nghiên cứu thì đây là một mô hình mang tính bền vững và có hiệu quả kinh tế.

Nuôi tôm - lúa có nhiều lợi ích: Giảm chi phí làm đất, giảm phân bón, giảm thuốc bảo vệ thực vật, tạo sản phẩm lúa và tôm an toàn thực phẩm, đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng, mô hình nuôi bền vững, thân thiện môi trường. Mô hình tôm lúa nuôi với mật độ thưa nên tôm nhanh lớn, ít dịch bệnh. Do cấy lúa cải tạo được đất đáy, tạo môi trường tốt cho tôm phát triển.

Hiệu quả triển khai mô hình tôm lúa tại đồng bằng sông Cửu Long

Trong thời gian qua, bên cạnh việc phát triển các mô hình nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã rất quan tâm đến các mô hình nuôi tôm tại Đồng bằng sông Cửu Long theo hướng bền vững, trong đó có mô hình nuôi luân canh tôm lúa. Từ năm 2011 đến nay, thông qua các chương trình Khuyến nông Quốc gia và các chương trình khuyến nông tại địa phương đã tổ chức các lớp tập huấn hướng dẫn tiến bộ khoa học kỹ thuật nuôi tôm- lúa và xây dựng các mô hình trình diễn để người dân có điều kiện được tham quan, học tập trao đổi kinh nghiệm sản xuất.

Năm 2011-2013, Bộ đã phê duyệt dự án khuyến ngư “Phát triển nuôi tôm lúa” do Trung tâm Khuyến nông quốc gia phối hợp Trung tâm Khuyến nông Sóc Trăng thực hiện. Dự án được thực hiện với quy mô 4 tỉnh: Cà Mau, Kiên Giang, Bạc Liêu và Sóc Trăng, với diện tích 190 ha và 190 hộ dân tham gia.

Kết quả triển khai cho thấy, việc trồng lúa trên đất nuôi tôm không xảy ra xung đột trong quá trình sản xuất, mà là mô hình thông minh. Vào mùa khô, nước ngoài sông rạch mặn thì lấy vào nuôi tôm, khi mưa xuống nước ngọt thì đưa vào trồng lúa. Trong hệ thống canh tác tôm- lúa, sau khi nuôi một vụ tôm thì tiến hành trồng một vụ lúa, khi đó những chất thải hữu cơ dưới đáy ao sau khi thu hoạch tôm sẽ làm cho ruộng lúa màu mỡ, người trồng lúa chỉ bón một lượng phân nhỏ là đáp ứng nhu cầu phát triển của cây. Bên cạnh đó, để tránh ảnh hưởng đến tôm nuôi, người dân phải áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp, ít sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (giảm 70-80%). Ngược lại, nuôi tôm sau vụ lúa thì nền đáy ao đã được khoáng hóa nên các chất độc hại giảm, hạn chế tình trạng vùng nuôi tôm bị lão hóa do đất bị ngập mặn lâu, đồng thời cắt phần mầm bệnh trong ao nuôi, môi trường ổn định, khi nuôi tôm không cần sử dụng nhiều thuốc, hóa chất, hạn chế chi phí sản xuất, lợi nhuận tăng cao.

Theo đánh giá của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, hệ thống canh tác tôm lúa hạn chế sử dụng hóa chất độc hại, sử dụng tài nguyên nước hợp lý theo từng thời điểm và mùa trong năm, thích ứng với điều kiện tự nhiên, thời tiết khí tượng thủy văn, tạo ra sản phẩm sạch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phù hợp với sản xuất nông nghiệp, từ đó nâng cao giá trị hàng hóa, tăng lên từ 2-3 lần so với chỉ cấy lúa. Ngoài ra, mô hình này giải quyết được vấn đề ô nhiễm nguồn nước, lão hóa vùng nuôi tôm, giảm thiểu rủi ro dịch bệnh, tạo điều kiện giúp nghề nuôi phát triển bền vững.

Tuy nhiên, bên cạnh nhiều lợi ích thì mô hình này vẫn còn bộc lộ một số bất cập: Là mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến nên công trình chưa đảm bảo, bị rò rỉ, bị nhiễm phèn và không giữ được nước. Kỹ thuật về nuôi tôm-lúa của bà con còn hạn chế, chủ yếu nuôi theo kinh nghiệm nên năng suất bấp bênh và thiếu ổn định. Môi trường ngày càng ô nhiễm, độ mặn biến động lớn, thời tiết biến đổi gây biến động môi trường lớn. Hiện nay các vùng sản xuất tôm lúa nằm xen trong các khu nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh, hệ thống thủy lợi phục vụ mô hình tôm lúa chưa đồng bộ, vấn đề quản lý nguồn nước, dịch bệnh chưa chặt chẽ, còn thiếu sự liên kết, hợp tác trong người dân ở từng khu vực và giữa các bên có liên quan, để phát triển mô hình tôm lúa.

Ngoài ra, tôm giống chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, chất lượng, thời gian theo thời vụ không được khuyến cáo, người dân ít quan tâm đến chất lượng tôm giống. Sản xuất lúa phụ thuộc nhiều vào thời tiết và nguồn nước ngọt, chưa có giống lúa đặc thù cho từng vùng sinh thái khác nhau, nên năng suất, chất lượng lúa thấp. Nông dân thiếu vốn sản xuất trong khi giá vật tư nông nghiệp không ổn định và cao so với khả năng đầu tư của nông hộ.

Giải pháp phát triển bền vững

Trước những lợi ích và bất cập của mô hình nuôi tôm-lúa, Trung tâm Khuyến nông quốc gia đã đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển bền vững nghề này:

Tăng cường công tác quản lý chất lượng tôm giống, xét nghiệm và cho kết quả nhanh bệnh dịch trên tôm. Đầu tư nghiên cứu lai tạo ra các giống lúa có khả năng chịu mặn, chịu phèn tốt, kháng bệnh, năng suất và chất lượng tốt.

Để mô hình luân canh tôm lúa tiếp tục phát triển mạnh và bền vững, trong thời gian tới cần quy hoạch hợp lý các vùng luân canh, để có các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng phù hợp và chính sách tín dụng hỗ trợ sản xuất, khuyến khích sản xuất theo hướng liên kết, hợp tác. Nâng cấp các công trình nuôi trồng thủy sản, đặc biệt đối với hình thức nuôi luân canh tôm lúa, cần gia cố bờ bao, mương bao để đảm bảo ứng phó với hiện tượng biến đổi khí hậu, nước biển dâng trong thời gian tới.

Tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật, chỉ nên nuôi 1 vụ tôm, 1 vụ lúa/năm. Mật độ nuôi chỉ nên duy trì dưới 8 con/m2, diện tích mương nuôi tôm chiếm không quá 30% tổng diện tích.

Tăng cường tập huấn kỹ thuật, nhất là quản lý môi trường nước và phòng trị bệnh trên tôm nuôi. Tổ chức các điểm trình diễn mô hình tôm- lúa cho nông dân tham quan, học hỏi kinh nghiệm, nhằm tăng hiệu quả sản xuất. Người dân cần liên kết và hợp tác trong sản xuất, để cải tạo đất, thả tôm giống, gieo cấy lúa theo lịch thời vụ.

Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về lợi ích và hiệu quả của hình thức nuôi tôm lúa.

FAO cảnh báo về virus nguy hiểm trên cá rô phi


Một loại bệnh truyền nhiễm rất phổ biến đang lan rộng ở cá rô phi nuôi và cá rô phi tự nhiên, một trong những loài cá quan trọng nhất trên thế giới được sử dụng làm thực phẩm cho con người.

Theo một thông báo đặc biệt được Hệ thống thông tin và cảnh báo sớm của FAO (GIEWS) công bố ngày 26/5/2017, sự bùng phát dịch bệnh cần được quan tâm và các quốc gia nhập khẩu cá rô phi nên áp dụng các biện pháp quản lý rủi ro thích hợp như tăng cường kiểm tra chẩn đoán, thực thi các giấy chứng nhận sức khoẻ, triển khai các biện pháp kiểm dịch và lập kế hoạch dự phòng.

Virus Tilapia Lake (TiLV) đã được xác nhận tại 5 quốc gia trên ba lục địa: Colombia, Ecuador, Ai Cập, Israel và Thái Lan.

Mặc dù tác nhân gây bệnh không gây ra mối lo ngại về sức khoẻ cộng đồng, nhưng bệnh có thể giết chết các quần thể cá bị nhiễm bệnh. Năm 2015, sản lượng cá rô phi trên thế giới, từ cả nuôi trồng thủy sản và đánh bắt, lên tới 6,4 triệu tấn, với giá trị ước tính là 9,8 tỷ USD, và thương mại toàn cầu đạt 1,8 tỷ USD. GIEWS cho biết cá rô phi là đối tượng của an ninh lương thực và dinh dưỡng toàn cầu.

Các nước sản xuất cá rô phi cần thận trọng và nên tuân thủ các quy tắc về sức khoẻ động vật thủy sản của Tổ chức Thú y Thế giới (OIE) khi kinh doanh cá rô phi. Các nước này nên bắt đầu một chương trình giám sát tích cực để xác định việc có hoặc không có TiLV, phạm vi địa lý của bệnh và xác định các yếu tố nguy cơ có thể giúp ngăn ngừa bệnh.

Các quốc gia cũng được khuyến khích khởi động các chiến dịch thông tin đại chúng để tư vấn cho các nhà nuôi trồng thuỷ sản - nhiều người trong số đó là các nông hộ nhỏ - về các dấu hiệu lâm sàng của TiLV và những rủi ro về kinh tế và xã hội mà nó đặt ra và sự cần thiết phải chuyển những con số tử vong quy mô lớn đến các cơ quan an toàn sinh học.

Hiện tại, giám sát TiLV đang được tiến hành ở Trung Quốc, Ấn Độ, In-đô-nê-xia và dự kiến ​​sẽ bắt đầu tại Philippin. Tại Israel, một cuộc khảo sát dịch tễ học dự kiến ​​sẽ xác định các yếu tố ảnh hưởng đến tỉ lệ sống sót thấp và con số chết nói chung, trong đó có tầm quan trọng tương đối của TiLV. Ngoài ra, một công ty tư nhân hiện đang phát triển vắc-xin sống làm suy yếu TiLV.

GIEWS cho biết trong cảnh báo của mình: Hiện chưa biết liệu bệnh có thể lây truyền qua các sản phẩm cá rô phi đông lạnh hay không, nhưng “có khả năng TiLV có thể phân bố rộng hơn mức độ hiện nay và mối đe dọa đối với ngành nuôi cá rô phi ở mức độ toàn cầu là rất lớn”.

FAO sẽ tiếp tục theo dõi TiLV, làm việc với các chính phủ và các đối tác phát triển và tìm kiếm các nguồn có thể để giúp các nước thành viên của FAO đối phó với TiLV theo yêu cầu và khi cần thiết.

Dịch bệnh

Có rất nhiều khoảng trống kiến ​​thức liên quan đến TiLV.

Cần thêm nhiều nghiên cứu để xác định liệu có phải TiLV được lan truyền bởi các loài không phải là cá rô phi và các sinh vật khác như chim và động vật có vú ăn thịt hay không, và liệu nó có thể được truyền qua các sản phẩm cá rô phi đông lạnh.

Bệnh này cho thấy tỷ lệ chết rất cao, với sự bùng phát ở Thái Lan khiến 90% số cá bị chết. Các con cá nhiễm bệnh thường bỏ ăn, vận động chậm, nhiễm trùng da và loét da, các bất thường ở mắt, và phần thủy tinh thể bị mờ. Do đây là một thử nghiệm chẩn đoán đáng tin cậy cho TiLV, nên áp dụng để loại trừ TiLV là tác nhân gây các tình trạng cá chết không rõ nguyên nhân.

TiLV thuộc họ Orthomyxoviridae, cũng cùng một gia đình trong đó có virus Anaemia gây bệnh trên cá hồi, gây thiệt hại lớn cho ngành nuôi cá hồi.

Vào tháng 5 năm 2017, Mạng lưới các Trung tâm Nuôi trồng Thuỷ sản Châu Á Thái Bình Dương (NACA) đã đưa ra một cảnh báo về bệnh TiLV và Tổ chức Thú y Thế giới (OIE) đã ban hành Chương trình ứng phó với bệnh. WorldFishcenter cũng đưa ra một văn bản: TiLV: Những gì cần biết và làm, trong tháng này.

Tầm quan trọng của cá rô phi

Cá rô phi là loài nuôi thủy sản quan trọng thứ hai về khối lượng cung cấp thực phẩm, công ăn việc làm và tạo thu nhập trong nước và xuất khẩu cho hàng triệu người, bao gồm nhiều nông hộ nhỏ.

Giá cả phải chăng, chế độ ăn tạp, khả năng thích ứng được các phương pháp nuôi mật độ cao và thường kháng bệnh mạnh khiến chúng trở thành nguồn protein quan trọng, đặc biệt là ở các nước đang phát triển và cho người tiêu dùng nghèo.

Trung Quốc, In-đô-nê-xia và Ai Cập là ba nhà sản xuất cá rô phi hàng đầu, một loài cá được cho là có tiềm năng lớn để mở rộng tại vùng hạ Sahara châu Phi.

Nguồn: FAO

Bài viết được xem nhiều