Hiển thị các bài đăng có nhãn nuôi trồng thủy sản. Hiển thị tất cả bài đăng

Thách thức thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ

Là một trong những thị trường trọng điểm cho xuất khẩu nông sản Việt Nam, nhưng Mỹ vẫn được dự báo là còn không ít khó khăn nhất là với ngành thủy sản trong năm 2018 này.

Tín hiệu khả quan

Thống kê của Bộ NN&PTNT, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy, sản tháng 2 năm 2018 ước 2,6 tỷ USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu 2 tháng đầu năm đạt 6,1 tỷ USD, tăng 30,2% so cùng kỳ năm 2017. Cụ thể, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước 3,3 tỷ USD, tăng 27,8%; thủy sản ước gần 1,2 tỷ USD, tăng 29,5%; các mặt hàng lâm sản chính ước 1,43 tỷ USD, tăng 28,5%; nhóm các mặt hàng khác đạt 237 triệu USD, tăng 107,1%.

Năm 2017, ngành nông nghiệp ghi nhận mức tăng trưởng khá với hơn 36 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu, tăng 13% so năm 2016,  trong đó  nhiều dấu mốc mới như xuất khẩu thủy sản lần đầu tiên vượt 8 tỷ USD; góp phần đưa thặng dư tuyệt đối của ngành nông nghiệp đạt con số 8,55 tỷ USD, tăng hơn 1,1 tỷ USD so năm 2016, với 10 nhóm hàng xuất khẩu trên 1 tỷ USD.

Theo Hiệp hội Chế biến Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc vẫn là 4 thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam, chiếm 55,3% tổng giá trị xuất khẩu.

Rào cản tại thị trường Mỹ

Tuy thuộc top những thị trường nhập khẩu hàng đầu sản phẩm thủy sản Việt Nam; nhưng xuất khẩu thủy sản nói chung sang thị trường Mỹ dự báo sẽ còn gặp nhiều khó khăn trong năm 2018.

Cụ thể là Chương trình giám sát hải sản nhập khẩu (SIMP) chống lại các hoạt động khai thác hải sản bất hợp pháp (IUU) và gian lận hải sản vào nước này được triển khai từ đầu năm 2018, sẽ khiến thủy sản xuất khẩu sang thị trường này bị kiểm soát nguồn gốc chặt hơn. Chương trình này được thiết lập dành cho 13 loài nằm trong nguy cơ bị đánh bắt trong đó có cá ngừ. Cá ngừ lại là sản phẩm cá biển chủ lực của Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ. Việc đưa ra những rào cản kể trên theo VASEP là để các nhà nhập khẩu Việt Nam nhận diện rõ những thách thức mà họ sẽ phải đối mặt trong hoạt động sản xuất chế biến và xuất khẩu của mình. Từ đó cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định một cách có trách nhiệm, bền vững đối với thị trường này.

Mặt khác, thủy sản vẫn là mặt hàng đang chịu nhiều áp lực nhất khi xuất khẩu sang Mỹ; bởi thị trường này liên tục đưa ra các rào cản về thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp. Đơn cử, tháng 9/2017, Bộ Thương mại Mỹ (USDC) công bố Kết luận sơ bộ đợt rà soát hành chính thuế chống bán phá giá lần thứ 13 (POR13) đối với sản phẩm cá tra - basa nhập khẩu từ Việt Nam. Theo đó, sau khi Mỹ tiến hành kiểm tra 100% lô hàng cá tra Việt Nam từ ngày 2/8/2017, USDC đã quyết định áp mức thuế 2,39 USD/kg, cao gấp 3 lần mức thuế suất riêng lẻ trong kỳ xem xét hành chính lần thứ 12. Xuất khẩu cá tra sang Mỹ năm 2018 có thể sẽ giảm khoảng 10%. Ngày 12/1/2018, Việt Nam đã đệ trình khiếu nại lên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), liên quan đến cách Mỹ đánh thuế mang tính trừng phạt các mặt hàng cá fillet Việt Nam vì cho rằng, Mỹ đã vi phạm các quy định của WTO trong cách áp thuế lên cá fillet Việt Nam. Mỹ sẽ có thời gian 60 ngày để giải quyết khiếu nại hoặc Việt Nam có thể yêu cầu WTO phân xử.

Để tháo gỡ những khó khăn trên, Bộ Công thương đang tích cực hỗ trợ các hiệp hội, doanh nghiệp cập nhật thông tin, ứng phó với các vụ việc hàng hóa xuất khẩu bị điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại, thông tin cảnh báo về cách phòng tránh, xử lý các vụ kiện phòng vệ thương mại nhằm đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp. Hiện, Bộ Công thương cũng đang phối hợp cùng Bộ NN&PTNT triển khai các chương trình hành động về an toàn thực phẩm, đặc biệt là tổ chức sản xuất, kinh doanh sản phẩm nông nghiệp, thực phẩm theo chuỗi liên kết giữa người sản xuất với doanh nghiệp và thị trường. Đồng thời, tăng cường nâng cao hoạt động thực thi Luật An toàn thực phẩm, Luật Thủy sản…

Tuy nhiên, cùng với các giải pháp tháo gỡ khó khăn thị trường của các cơ quan chức năng, doanh nghiệp cần có giải pháp nâng cao sức cạnh tranh và chất lượng sản phẩm, đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn thị trường nhằm giữ vững và mở rộng thị phần xuất khẩu.

Nguồn: Bảo Bình - Tạp chí Thủy sản Việt Nam.

Quản lý thức ăn: Yếu tố quan trọng cho vụ nuôi tôm thành công


Ngoài yếu tố tôm nuôi chết sớm do bệnh gan tuỵ cấp thì thức ăn là một nguyên nhân gây bất lợi cho tôm, dẫn đến vụ nuôi không thành công như mong đợi. Do đó, việc quản lý thức ăn phải được người nuôi đặt lên hàng đầu, nhất là trong thời kỳ dịch bệnh hiện nay.

Thức ăn cho tôm nuôi phải được cung cấp từ công ty có uy tín, chất lượng được kiểm chứng và người nuôi thành công trong nhiều năm qua. Việc vận chuyển thức ăn từ đại lý đến hộ nuôi có thể xảy ra xây xát, lủng bao hoặc ẩm ướt chắc chắn sẽ giảm chất lượng, gây hại cho sức khỏe tôm nuôi.

Anh Du Tô Sữa, ấp Hoà Trung, xã Lương Thế Trân, huyện Cái Nước, cho biết: “Vừa qua tôi sử dụng lô thức ăn 15 bao có hiện tượng như bị sấy lại, không còn mùi và cho tôm ăn trong khoảng 10 ngày thì có hiện tượng tôm tấp mé. Ðành phải thu hoạch sớm”.


Về quy trình nuôi, kỹ thuật nuôi, anh Sữa nhận định, khi cho ăn dư khoảng 3 cữ thì nước sẽ lên tảo màu xanh đen. Khi đó, một số trường hợp xử lý cắt tảo bằng các loại hoá chất để hạn chế sự nở hoa của tảo, đồng thời xử lý vi sinh, các loại thuốc trộn, khoáng tạt để tăng cường sức khoẻ cho tôm, ổn định môi trường ao nuôi. Những biện pháp này rất tốn kém và hiệu quả chỉ trong giai đoạn ngắn mà không ổn định được đến hết vụ nuôi.

Thạc sĩ Ðỗ Văn Hoàng, Phân viện Nghiên cứu thuỷ sản Minh Hải, cho biết: “Có rất nhiều loại đạm được các công ty thức ăn công bố nhưng tôm chỉ hấp thu được những loại đạm là axitamin dễ tiêu, còn lại tôm không hấp thu được sẽ thải ra môi trường bên ngoài”.

Cũng theo Thạc sĩ Ðỗ Văn Hoàng, từ kết quả nguyên cứu của nhiều nhà khoa học, tôm chỉ hấp thu được khoảng 17% đạm có trong thức ăn. Tuỳ theo sức khoẻ của tôm trong thời điểm khác nhau và tuỳ theo hàm lượng đạm (axitamin) dễ tiêu có trong thức ăn mà tôm hấp thụ được cũng khác nhau trong ngày. Bên cạnh đó, hiện nay việc kiểm tra cũng như quản lý chất lượng thức ăn – hàm lượng đạm trong thức ăn mà các công ty thức ăn công bố trên bao bì là rất khó khăn.

Lượng đạm được tôm thải ra môi trường hằng ngày cùng với đạm trực tiếp từ thức ăn khi người nuôi tôm cho ăn dư thừa được tích tụ lại dưới đáy ao. Sau một thời gian, lượng đạm này phân huỷ, sinh ra khí độc NH3 và H2S. Lượng khí độc này được người nuôi xử lý bằng các loại thuốc thuỷ sản và phải định kỳ để ổn định nhưng rất tốn kém. Cùng với lượng đạm dư thừa trực tiếp gây nở hoa cho tảo và khi tảo tàn sẽ vào mang tôm gây khó khăn cho tôm hô hấp, dẫn đến tôm chết đáy, người nuôi thu hoạch sớm trong giai đoạn 1-2 tháng tuổi như đã qua.

Do đó, để vụ nuôi thành công, người nuôi phải sử dụng vi sinh chất lượng xử lý đáy định kỳ; phải quản lý, cho tôm ăn theo phương châm từ đủ đến thiếu lượng thức ăn cho tôm vào mỗi lần cho ăn. Phải căn cứ vào trọng lượng tôm hiện tại cùng với số lượng tôm thả nuôi để xác định lượng thức ăn cho mỗi lần ăn. Nếu thực hiện tốt việc quản lý thức ăn trên thì chi phí cho vụ nuôi sẽ giảm và bớt rủi ro, giúp vụ nuôi thành công cao hơn…

Theo Diệu Lữ, Báo Cà Mau, 09/11/2014

'Lênh đênh' nghề nuôi cá bớp

“Ngày biển lặng đã đành, phải khi sóng to gió lớn, ngồi một chỗ còn khó, huống hồ đi lại để chăm sóc cá. Nhọc, nhưng năm nào cá bán được giá thì sống khỏe” - Chị Phan Thị Kim Sang, một trong những người đầu tiên đến đảo Hòn Chuối nuôi cá bớp chia sẻ.

Những bè cá bớp. Ảnh minh họa.

Đổi đời nhờ cá bớp

Đến đảo Hòn Chuối (huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau), tôi thực sự bất ngờ khi được thưởng thức các món ăn từ cá bớp do cán bộ, chiến sĩ (CBCS) Đồn Biên phòng Hòn Chuối chế biến. Miếng cá nạc, giòn thơm, vị ngọt tự nhiên không giống với món ăn nào khác. Đĩa lòng cá hấp dẫn với những miếng dạ dày giòn sần sật, trứng cá, gan cá thơm, mềm và không có mùi tanh. Thú vị hơn cả, khi các chiến sĩ cho biết, đây là sản phẩm cá bớp do người dân nuôi ở chính đảo Hòn Chuối. Không chỉ là thực phẩm bổ dưỡng, cá bớp còn đang giúp nhiều hộ dân vốn ăn bữa nay lo bữa mai, vươn lên làm giàu.

Theo Thiếu tá Nguyễn Văn Hệ, Phó Đồn trưởng Đồn Biên phòng Hòn Chuối, năm 2010, một số hộ dân ở thị trấn Sông Đốc, thậm chí ở tận Kiên Giang đã ra đảo Hòn Chuối nuôi loài cá này. Không ngờ, vùng biển quanh đảo lại rất phù hợp với cá bớp. Cá lớn nhanh, ít dịch bệnh, chất lượng thịt cá thơm ngon đặc biệt. Từ đây, nhiều người dân ở đảo Hòn Chuối cũng học hỏi kinh nghiệm, làm hộc để nuôi cá. Một số người còn bỏ cả nghề đi biển để tập trung nuôi cá bớp. Có thời điểm, quanh đảo Hòn Chuối có hơn 50 hộ dân nuôi cá. Với thời gian nuôi khoảng 6 – 7 tháng, cá đạt trung bình 8-10kg thì xuất bán, mỗi hộc cá lời từ 30 – 50 triệu đồng.

Bị hấp dẫn bởi các món ăn chế biến từ cá bớp, lại nghe thông tin cá bớp đang có giá bán tới 160.000 đồng/kg mà không có để bán, nên sáng hôm sau, tôi háo hức theo chân CBCS Đồn Biên phòng Hòn Chuối đến với những bè nuôi cá bớp quanh đảo. Đón chúng tôi lên bè cá bằng nụ cười thân thiện, chị Phan Thị Kim Sang và chồng là anh Lê Văn Út, cho biết: “Vợ chồng tôi là một trong số hộ đầu tiên ra đảo Hòn Chuối nuôi cá. Đến nay, gia đình đã có 20 hộc cá”.

Theo cách tính của chị Sang, nếu trung bình mỗi hộc nuôi khoảng 200 con, thì nguyên tiền cá giống đã gần 30 triệu đồng/hộc. “Đợt vừa rồi, gia đình mua 1.500 con giống, với số tiền hơn 200 triệu đồng. Mang về đến bè, cá chết bớt, còn chưa đến 1.200 con”. Cũng theo chị Sang, sở dĩ, cá giống đắt như vậy bởi đây hoàn toàn là cá tự nhiên, được các ghe lớn đánh bắt ở vùng khơi mang về. Quá trình vận chuyển về đến đảo, một số con bị chết.

Vừa dẫn tôi đi xem những hộc cá nối dài, bên trong là vô số những con cá to bằng cổ tay, chị Sang vừa kể: “Cá bớp được nuôi hoàn toàn bằng cá cào, cá lưới bao, ngoài ra không cho ăn thêm bất kỳ thức ăn nào khác. Hiện, 1.500 con cá nhà tôi tiêu tốn 300kg thức ăn/ngày, tương đương 2 triệu đồng. Thời điểm gia đình nuôi nhiều nhất là 7.000 con, chi phí thức ăn hết mười mấy triệu đồng/ngày. Cái hay là cá bớp có thể nhịn ăn vài ngày vẫn sống khỏe”.

Năm 2017, khi cá bớp đạt giá cao nhất từ trước đến nay (160.000 đồng/kg), không ít hộ nuôi cá bớp ở Hòn Chuối bội thu hơn cả mong đợi. Ngoài những gia đình có thu nhập xấp xỉ tiền tỉ như gia đình anh chị Sang -  Út, các hộ khác như ông Tư Phương,  Kim Ngọc Tồn, Kim Ngọc Tuấn, Kim Ngọc Của... đều có thu nhập từ vài chục đến vài trăm triệu đồng.

Bám biển, trông cá, nuôi hi vọng

Có vượt biển đến với các bè cá, nghe người nuôi cá bớp kể chuyện mới hay, để có những lứa cá chất lượng, năng suất cao, người nuôi cá cực khổ trăm bề. “Sóng yên thì khỏe; sóng to thì cực, các hộc cá vì bị giật, mà di chuyển để chăm sóc cá gặp rất nhiều khó khăn” - Chị Sang chia sẻ trong lúc cố gắng giữ để tôi có thể đứng vững được trên các hộc cá liên tục tròng trành bởi sóng gió. Làm việc cách đất liền cả 3 giờ chạy tàu, cuộc sống của những người nuôi cá bớp ở Hòn Chuối gói gọn trên những con tàu, 24 giờ mỗi ngày là 24 giờ lênh đênh cùng sóng gió. Tổ ấm của họ chính là những con tàu với không chỉ chỗ ngủ, bếp nấu ăn, mà còn có cả ti vi, máy phát điện, dàn năng lượng mặt trời.

Từ thị trấn Sông Đốc, anh Võ Văn Phong ra đảo Hòn Chuối nuôi cá bớp đã được 6 năm. Một mình xoay xở với 6 hộc cá, vui buồn ra sao, anh đã nếm đủ. “Cá khỏe không sao, thi thoảng cá bệnh, lo muốn chết vì bao nhiêu vốn liếng đổ cả vào đây, chỉ riêng mỗi điều trị bệnh lở loét thân cá bớp đã tốn biết bao nhiêu là chi phí...” – Anh cho hay. Minh chứng cho lời anh Phong nói là câu chuyện về hơn chục hộ dân vay tiền để nuôi cá bớp đúng năm bị ảnh hưởng từ vụ ô nhiễm môi trường ở Formosa Hà Tĩnh (năm 2016), cá bán không ai mua, người nuôi điêu đứng, nhiều hộ vay tiền để đầu tư nuôi cá phút chốc trắng tay.

Vẫn còn nhớ như in nỗi buồn của người nuôi cá bớp khi ấy, ông Tư Phương, Tổ trưởng Tổ tự quản ở đảo Hòn Chuối, cũng là một trong những người đầu tiên nuôi cá bớp ở đây cho hay: “Năm 2016, có đến hơn chục hộ thất bại vì nuôi cá bớp đã bỏ lại nhà cửa trên đảo để đi vào Bình Dương mưu sinh, kiếm tiền trả nợ. Năm nay, gia đình ông có 10 hộc cá, nhưng ông vẫn chưa thả cá giống hết. Vừa thả, vừa nghe ngóng xem sao”.

Ngồi trò chuyện cùng tôi trước cửa căn nhà dựng trên ghềnh đá, trong tiếng sóng xô, bọt tung trắng xóa..., ông Tư Phương trầm ngâm: “Những năm đầu nuôi cá bớp, người nuôi chỉ lo xoay xở tiền để đầu tư mà ít phải lo lắng về dịch bệnh, nhưng giờ đây, hiện tượng cá bị mù mắt, bỏ ăn, hay cá bị sứa cào lở da xảy ra ngày càng nhiều. Mới đây, người nuôi cá bớp ở Hòn Chuối đã “cầu cứu” Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Cà Mau hỗ trợ, đưa các chuyên gia nuôi trồng thủy sản ra đảo khảo sát tìm nguyên nhân và đưa ra giải pháp khắc phục”. Theo ông Phương, rất có thể, tình trạng cá bị bệnh mù mắt là do nguồn nước bị ô nhiễm vì số lượng hộ nuôi cá tăng lên so với mấy năm trước, mật độ các bè cá cũng dày hơn. Bên cạnh đó, việc sứa biển bám vào các hộc nuôi cũng có thể là nguyên nhân khiến cá bị ghẻ lở, mù mắt.

Như nhiều công việc mưu sinh khác, việc nuôi cá bớp ở Hòn Chuối, nói theo cách của người dân nơi đây, cũng còn tùy hên-xui. Vậy nên, ngày lại ngày, những người nuôi cá bớp vẫn miệt mài chia sẻ cho nhau kinh nghiệm, chia cho nhau cả cân gạo, mớ rau trong ngày biển động, gom góp hi vọng về những lứa cá năng suất, được giá.

Theo: Mai Hoàng - Báo Biên Phòng / Tám Miền Tây t/h.


Mách nhỏ bà con cách đánh giá chất lượng dinh dưỡng ao nuôi bằng cách quan sát màu nước


Trong nuôi trồng thủy sản ta chú ý đến màu giả của nước nhiều hơn, vì qua đó có thể đánh giá sơ bộ môi trường nước đó giàu hay nghèo dinh dưỡng.

Có thể nói chưa bao giờ nuôi trồng thủy sản lại chứng tỏ được giá trị và tiềm năng to lớn về kinh tế trong nền nông nghiệp Việt Nam như hiện nay.

Với bất cứ quy mô nào, từ nuôi thâm canh với hình thức trang trại hay xen canh, quảng canh với hình thức hộ gia đình thì nuôi thủy sản vẫn mang lại lợi nhuận gấp nhiều lần so với trồng lúa trên cùng một diện tích. Điều này hoàn toàn đúng với câu nói “muốn giàu nuôi cá” được ông cha ta truyền miệng từ bao đời nay.

Tuy nhiên, lợi nhuận lớn cũng đồng nghĩa với rủi ro cao, đặc biệt là trong hoàn cảnh nghề nuôi thủy sản của nước ta chưa thật sự đạt tới trình độ tiên tiến và hiện đại. Các hộ nuôi nhỏ lẻ vẫn chủ yếu dựa trên kinh nghiệm của bản thân là chính.

Việc đầu tư để mua sắm các trang thiết bị như các bộ kit kiểm tra môi trường hay kính hiển vi được một số người nuôi xem như là một khoản chi phí không cần thiết. Chất lượng nước sẽ được đánh giá chủ yếu bằng cách quan sát màu nước trong ao nuôi, đây là một biện pháp đơn giản, dễ thực hiện.

Tuy nhiên, nếu không có kiến thức đầy đủ về màu nước trong ao nuôi thủy sản, người nuôi cũng sẽ dễ bị nhầm lẫn và đánh giá không đúng về hiện trạng chất lượng nước.

>> Có thể bạn đang cần: Cách khắc phục nước ao nuôi tôm bị mất màu trong tháng nuôi đầu tiên

Trên thực tế, nước trong ao nuôi thường có màu do sự xuất hiện của các hợp chất hữu cơ hòa tan hay không hòa tan, hay do sự phát triển của tảo. Có thể chia màu nước là 2 dạng, màu thực và màu giả. Màu thực của nước là màu do các hợp chất hòa tan trong nước gây ra, màu giả là màu của các hợp chất không hòa tan. Trong nuôi thủy sản ta chú ý đến màu giả của nước nhiều hơn, vì qua đó có thể đánh giá sơ bộ môi trường nước đó giàu hay nghèo dinh dưỡng. Trong ao nuôi thường có các màu sau:

Nước màu xanh nhạt (đọt chuối non)

Màu xanh nhạt do sự phát triển của tảo lục (chlorophyta), loài tảo này thường phát triển mạnh trong môi trường nước ngọt hoặc nước lợ nhạt (dưới 10 phần nghìn).

Đây cũng là màu nước thích hợp nhất để nuôi thủy sản, tảo lục ngoài việc đóng vai trò quan trọng trong chuỗi thức ăn, còn có tác dụng ổn định các yếu tố thủy lý hóa trong ao, hấp thu các chất hữu cơ thông qua đó làm giảm lượng khí độc trong ao. Người nuôi nên cố gắng duy trì màu nước xanh nhạt, như vậy các loài thủy sản sẽ phát triển tốt hơn.

Nước màu xanh đậm (xanh rêu)

Nước có màu xanh đậm là do sự phát triển của tảo lam (Cyanophyta), loài tảo này phát triển mạnh cả trong môi trường nước ngọt, lợ, mặn.

Nếu nước trong ao nuôi có màu này thì cần có biện pháp làm giảm lượng tảo, vì đây là loại tảo không tốt cho các loài thủy sản. Hơn nữa, nếu tảo lam phát triển quá mức có thể tiết ra chất độc làm chết cá. Bên cạnh đó, còn có thể gây thiếu oxy về đêm do tảo hô hấp quá mức.

Màu vàng nâu (màu nước trà)

Nước có màu vàng nâu do sự phát triển của tảo silic (Bacillariophyta), loài tảo này thường phát triển mạnh ở môi trường nước lợ, mặn vào đầu vụ nuôi. Đây là màu nước thích hợp nhất để nuôi các loài thủy sản nước lợ, mặn.


Màu vàng cam (màu gỉ sắt)

Màu này thường xuất hiện ở các ao nuôi mới đào trên vùng đất phèn. Màu cam là do đất phèn tiềm tàng (FeS2) bị oxy hóa tạo thành các váng sắt.

Đối với ao có màu nước vàng cam cần có biện pháp khử phèn trước khi thả nuôi, có thể sử dụng vôi nông nghiệp hay bơm, xả nước nhiều lần để rửa trôi lượng phèn trong ao. Đối với các ao đang nuôi thì cần rải thêm vôi trên bờ ao để tránh hiện tượng pH giảm đột ngột khi trời mưa.

Màu đỏ gạch (màu đất đỏ)

Nước có nhiều phù sa do đất cát bị xói mòn từ vùng thượng nguồn được dòng nước mang đến vùng hạ lưu. Trong ao nuôi thủy sản ít khi có màu nước như vậy, tuy nhiên vùng ĐBSCL hay gặp nước đỏ gạch trên các con kênh, sông khi chuẩn bị sắp có lũ về.

Người nuôi cần lưu ý không nên cấp nước vào ao lúc này, vì lượng phù sa nhiều sẽ làm tôm, cá khó hô hấp và giảm khả năng bắt mồi. Tốt nhất là nên cấp nước vào ao lắng trước khi cung cấp cho các ao đang nuôi.

Màu nâu đen

Nước có màu nâu đen do trong nước có chứa nhiều vật chất hữu cơ. Màu nước này thường thấy ở các ao nuôi có hệ thống cấp, thoát nước không tốt, trong quá trình nuôi không quản lý tốt môi trường, cho ăn dư thừa nhiều sẽ dể làm nước ao nuôi có màu nâu đen. Trường hợp này hàm lượng oxy hòa tan rất thấp, vì vậy cần có biện pháp xử lý ngay.

Có thể thay nước nhiều lần đến khi hết màu nâu đen, hoặc kết hợp sử dụng thêm các loại chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản, hóa chất có thể hấp thu khí độc. Bên cạnh đó, nếu thấy tôm, cá có hiện tượng thiếu oxy cần sử dụng quạt đảo nước hoặc các loại hóa chất cung cấp oxy tức thời, nhằm làm giảm đến mức thấp nhất thiệt hại.

Quan sát màu nước trong ao nuôi là phương pháp dễ thực hiện và mang lại hiệu quả cao. Nếu người nuôi có đầy đủ kiến thức về các loại màu nước sẽ có thể đánh giá chính xác được hiện trạng chất lượng nước.

Thông qua đó sẽ có những biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho tôm, cá sinh trưởng và phát triển. Có như vậy, chi phí đầu vào sẽ giảm thấp, lợi nhuận từ việc nuôi thủy sản cũng sẽ tăng lên đáng kể.

Nguồn: Lâm Trọng Nghĩa (Báo NNVN) - Tám Miền Tây t/h.

Một số bệnh thường gặp trong nuôi cá chẽm và cách phòng trị

(*) Bài viết được trích từ Ths. Trần Quang Khánh Vân - Khoa Thủy Sản, ĐH Nông Lâm Huế

Những năm gần đây nghề nuôi cá biển nói chung, nghề nuôi cá chẽm nói riêng đã có những bước phát triển mạnh. Cá chẽm được quan tâm nghiên cứu để nuôi thương phẩm nhằm thực hiện phương hướng đa dạng hóa đối tượng nuôi, hình thức nuôi, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế. Sự quan tâm đó trở nên cấp thiết hơn khi trong những năm gần đây một số đối tượng truyền thống của nước ta như tôm sú, tôm hùm và nhiều đối tượng kinh tế khác thường xuyên bị dịch bệnh đe dọa gây thiệt hại lớn cho người nuôi. Việc đưa các loài cá biển có giá trị kinh tế như cá chẽm vào thành phần loài nuôi và đa dạng hình thức nuôi sẽ là giải pháp thay thế hiệu quả, góp phần hạn chế nhưng rủi ro về kinh tế, ổn định, hiệu quả trong sử dụng diện tích mặt nước và góp phần cải tạo, cân bằng sinh thái môi trường ao nuôi.

Tuy nhiên, do việc mở rộng diện tích nuôi một cách bừa bãi, chưa có sự quy hoạch, phân vùng hợp lý, tư tưởng chủ quan, nóng vội, làm theo cảm tính, tự phát, xem nhẹ các vấn đề kỹ thuật, thời vụ… dẫn đến hậu quả  môi trường nước nuôi bị ô nhiễm nghiêm trọng, đồng thời do chịu tác động lớn của biến đổi khí hậu nên tình hình dịch bệnh trên cá chẽm xảy ra ngày càng nghiêm trọng.

Một số bệnh thường gặp trong nuôi cá chẽm, nguyên nhân và dấu hiệu bệnh lý

Cá mắc bệnh từ các nguyên nhân chủ yếu sau, thứ nhất nguồn giống thả nuôi chưa được kiểm tra chất lượng, giống mang sẵn mầm bệnh nhưng chưa được xử lý diệt trùng. Khi cá thả xuống nuôi một thời gian gặp thời tiết thay đổi thuận lợi mầm bệnh sẽ phát triển, kết hợp sức khỏe cá còn non nên bệnh càng dễ dàng phát sinh. Tiếp đến là do nguồn nước, vì chủ yếu là nuôi dựa vào tự nhiên không có biện pháp xử lý, nguồn nước kém chất lượng do bị ô nhiễm hóa chất độc, vi khuẩn, vi rút, hàm lượng chất hữu cơ cao, hàm lượng chất khí độc tích tụ… Sự xâm nhập của nước ngọt vào các mùa mưa, nước sứa độc là một trong những  nguyên nhân gây chết cá chẽm nuôi… Ngoài ra, mật độ cao cũng là nguyên nhân phổ biến gây chết cá. Cá được nuôi với mật độ cao dễ bị xây xát do va chạm, vì vậy sẽ tạo điều kiện cho tác nhân cơ hội xâm nhập, mặt khác khi  lượng chất thải ra môi trường cao, lượng oxy hòa tan thấp… sẽ gây ngộ độc cho cá. Thời tiết biến động thất thường cũng là nguyên nhân gây chết cá, đặc biệt là yếu tố nhiệt độ nước thay đổi đột ngột vào tháng 12 đến tháng 2 (có thể xuống thấp đến 18 - 22ºC)  hoặc nhiệt độ tăng cao vào tháng 3 đến tháng 5 (lên đến 35 - 39°C)  đều làm cá bị sốc,  bỏ ăn,  yếu, tạo điều kiện cho sinh vật gây bệnh  phát triển, làm  cá dễ dàng mắc bệnh.

STT
Bệnh
Tác nhân
gây bệnh
Dấu hiệu bệnh lý
1
Bệnh mòn vây và cụt đuôi.
Vi khuẩn

Cá có màu sắc nhợt nhạt, hoạt động kém, các vây bị ăn mòn đặc biệt là vây đuôi.
2
Bệnh lymphocystic
(bệnh u sần)
Virus
Cá bệnh xuất hiện các u lồi màu trắng, nâu hay hồng tại  một vị trí bất kỳ trên bề mặt cơ thể cá.
3
Bệnh lở loét, xuất huyết
Vi khuẩn
Cá kém ăn hoặc  bỏ ăn, bơi lội chậm chạp, bơi trên tầng nước mặt, xuất huyết trên thân và các gốc vây, mắt lồi.
4
Bệnh hoại tử thần kinh
Virus
Cá bơi lòng vòng, không có định hướng.
5
Bệnh đỉa cá
Đỉa cá
Đĩa cá ký sinh ở da, vây, mang và xoang miệng của cá để hút máu, gây tổn thương tại nơi chúng ký sinh.
6
Bệnh trùng bánh xe
Trùng bánh xe
Ký sinh trùng này thường bám ở da,vây, hốc mũi và mang. Khi cá mới mắc bệnh, mình cá có lớp nhớt màu hơi trắng đục. Bệnh nặng cá có màu sắc nhợt nhạt,  tiết nhầy trắng đục trên thân, mang, vây xơ mòn.
Cá bệnh thường nổi đầu và thích tập trung nơi nước chảy.
Thích cọ mình vào thành bể hoặc cây cỏ và cảm giác như ngứa ngáy.
7
Bệnh môi trường
Môi trường
Cá nổi đầu, bơi lờ đờ, kém ăn

Cá chẽm bị lở loét. Ảnh minh họa.

Một số biện pháp phòng và trị bệnh trên cá chẽm nuôi ao và nuôi lồng


# Phòng bệnh trên cá chẽm:

- Chọn vị trí ao nuôi và vị trí đặt lồng thích hợp
- Cải tạo ao triệt để
- Chọn giống tốt, giống phải được qua kiểm dịch
- Thức ăn đảm bảo chất lượng tốt, cho ăn đầy đủ
- Quản lý tốt các yếu tố môi trường ao nuôi
- Thường xuyên tắm cá bằng nước ngọt

# Trị bệnh xuất huyết, lở loét do tác nhân vi khuẩn.

Định kỳ 5-7 ngày tắm nước ngọt cho cá với 1 trong 4 loại thuốc, hóa chất sau: Formol 50-100ppm, KmnO4 2-5ppm, CuSO4 2-4ppm và Oxytetracylin 5-10ppm.

Hình 2. Cá chẽm bị đĩa bám ở vòm miệng (trái),  cá chẽm bị  mòn vây, cụt đuôi (phải)

Nguồn: UV-Việt Nam - Tám Miền Tây t/h..


Chế phẩm vi sinh trong nuôi trồng thủy sản: Lợi ích và những điều bà con cần lưu ý


Sử dụng chế phẩm vi sinh trong nuôi thủy sản là hướng đi có ý nghĩa thực tiễn nhằm bảo vệ môi trường và đảm bảo hiệu quả sản xuất. Từ đó, góp phần đưa nghề nuôi thủy sản phát triển bền vững.

Chế phẩm vi sinh trong nuôi trồng thủy sản là gì?

Về hình thức, men vi sinh có 02 dạng, dạng nước và dạng bột (hay dạng viên). Bình thường, dạng bột có mật độ vi khuẩn có lợi cao hơn so với dạng nước.

Về chủng loại, men vi sinh có 02 loại, loại dùng để xử lý môi trường (loài vi khuẩn chính là  Bacillus sp.) và loại trộn vào thức ăn (loài vi khuẩn chính là Lactobacillus).

Hai thành phần chính của men vi sinh là vi khuẩn có lợi và các chất dinh dưỡng để nuôi vi khuẩn. Vi khuẩn có lợi được phân lập từ nhiều nguồn khác nhau. Chúng gồm các loài như Bacillus sp., Nitrosomonas, Nitrobacter... Chất dinh dưỡng là các loại như đường, muối canxi, muối magiê…

Các lợi ích mang lại khi sử dụng men vi sinh:

(1) Làm ổn định chất lượng nước và nền đáy trong ao nuôi tôm, cá.
(2) Nâng cao sức khoẻ và sức đề kháng của tôm, cá.
(3) Giảm thiểu ô nhiễm môi trường ao nuôi và xung quanh do nuôi thuỷ sản gây nên.
(4) Nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn.

Các lợi ích đạt được như trên là do hoạt động tích cực của vi khuẩn qua một hay nhiều cơ chế tác động:

(1) Cạnh tranh mạnh mẽ chất dinh dưỡng, năng lượng và giá thể với các loài vi khuẩn có hại khác và tảo độc.
(2) Chuyển hoá các chất hữu cơ như thức ăn dư, xác tảo, cặn bã thành CO2 và nước; chuyển các khí độc như NH3, NO2 thành các chất không độc như NH4+, NO3-.
(3) Hạn chế vi khuẩn có hại trong đường ruột và giúp chuyển hoá hiệu quả thức ăn.
(4) Tiết ra một số chất kháng sinh, enzyme để kìm hãm hay tiêu diệt mầm bệnh.

Để men vi sinh phát huy hiệu quả cao, người nuôi thủy sản phải tuân thủ một số nguyên tắc dùng sau đây:

- Hoà loãng men vi sinh bằng nước trong ao nuôi, cho vào xô, thau, sau đó sục khí 4 - 5 giờ đến khi men có mùi chua hay pH giảm thì đem bón.

- Định kỳ dùng trong quá trình nuôi. Thông thường 7 - 10 ngày/lần đối với loại xử lý môi trường và luân phiên sử dụng 5 ngày, sau đó ngưng 5 ngày đối với loại trộn vào thức ăn. Sử dụng cùng lúc với bón phân gây màu nước hay sau khi nước đã lên màu.

- Liều lượng dùng phải theo đúng theo đề nghị của nhà sản xuất.

- Khi môi trường ao nuôi có dấu hiệu hay đang suy giảm chất lượng như hàm lượng khí độc cao (NH3, H2S, NO2…), nước nhiều cặn bã, nước phát sáng thì men vi sinh được sử dụng sớm hơn so với thường ngày với liều lượng tăng gấp 2 lần so với đề nghị để xử lý khí độc trong ao nuôi tôm.

- Không được sử dụng men vi sinh cùng với các loại hoá chất có tính diệt khuẩn như BKC, thuốc tím, Chlorine, i-ốt, kháng sinh. Đồng thời, không được sử dụng men vi sinh khi các chất trên đang hiện diện trong môi trường nước hay trong thân tôm, cá nuôi.

- Trước khi bón men vi sinh cần cải thiện môi trường ao nuôi bằng các biện pháp như thay nước, bón vôi nâng pH lên 7,5 - 8,5, bón vôi + Dolomite + Khoáng nâng cao độ kiềm.

- Men vi sinh sẽ có hiệu quả sau khi sử dụng 2 - 4 ngày, thể hiện qua màu nước và các chỉ tiêu môi trường.


Một số điều lưu ý về chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản

Trong những năm gần đây, việc ứng dụng các giải pháp kỹ thuật thích hợp vào nuôi thủy sản ngày càng phát triển tích cực, đặc biệt là việc sử dụng các loại chế phẩm sinh học vì giúp nâng cao sức tăng trưởng, đề kháng của tôm, cá và hạn chế việc lưu tồn mầm bệnh trong nước, giảm thiểu các tác động gây ô nhiễm môi trường.

Các loại chế phẩm sinh học có nguồn gốc vi sinh vật là sản phẩm khai thác các dòng vi sinh vật có lợi mà khi được đưa vào môi trường nuôi thủy sản sẽ giúp cho tôm, cá tránh được một số bệnh do các dòng vi khuẩn có hại gây ra. Ngoài ra, một số vi sinh còn có tác dụng cải thiện khả năng hấp thu thức ăn của tôm, cá. Đồng thời, các dòng vi sinh này còn có khả năng thúc đẩy quy trình phân giải các chất hữu cơ hòa tan và không hòa tan trong môi trường nước và nền đáy ao nên giúp giảm thiểu đáng kể các nguồn khí độc hại đối với tôm, cá.

Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu quả sử dụng chế phẩm sinh học, bà con nuôi thủy sản cần lưu ý một số vấn đề sau:

- Thứ nhất, trên thị trường hiện nay có 3 dạng chế phẩm sinh học phổ biến là: dạng bột, dạng nước, dạng viên. Do đó, bà con cần lưu ý thực hiện đúng cách hướng dẫn sử dụng của mỗi dạng chế phẩm. Thông thường, loại chế phẩm sinh học có tính năng men tiêu hóa, bà con nên hòa thêm một ít nước rồi trộn vào thức ăn, còn loại chế phẩm có tác dụng xử lý môi trường nếu ở dạng bột, bà con có thể ngâm trong nước và sục khí một thời gian để chúng phát triển gia tăng số lượng vi sinh trước khi cho xuống ao đầm. Khi ngâm các sản phẩm này có thể cho thêm một ít đường để tăng tác dụng. Các sản phẩm dạng nước thì có thể sử dụng trực tiếp.

- Thứ hai, lưu ý ngoại trừ một số ít loại chế phẩm khuyến cáo chỉ sử dụng lúc trời nắng, còn lại đa số nên sử dụng lúc trời mát.

- Thứ ba, chỉ mua các sản phẩm có bao bì, nhãn mác, hạn sử dụng và số công bố chất lượng rõ ràng.

- Thứ tư, không sử dụng chế phẩm sinh học chung với kháng sinh và các loại hóa chất có tính diệt khuẩn.

Huỳnh Phương Thảo/ Trung tâm Khuyến nông Long An

Muốn phát triển bền vững ngành cá tra, cần nguồn giống chất lượng cao


Theo ý kiến nhiều chuyên gia, chất lượng con giống suy giảm và không đảm bảo là yếu tố ảnh hưởng nghiêm trọng, trực tiếp đến sản lượng cá tra hiện nay.

Cá tra là đối tượng nuôi nước ngọt phổ biến ở vùng ĐBSCL, đồng thời là sản phẩm chủ lực của ngành thủy sản Việt Nam sau con tôm. Tuy nhiên, thời gian qua do chất lượng cá giống ngày càng suy giảm ảnh hưởng nghiêm trọng, trực tiếp đến sản lượng, năng suất và hiệu quả kinh tế của các cơ sở nuôi.

Để cung cấp con giống chất lượng cao cho các hộ nuôi tại khu vực ĐBSCL, định hướng xây dựng An Giang trở thành trung tâm giống cá tra công nghệ cao cung cấp con giống chất lượng cao theo hướng liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp.

Hiện nay, toàn vùng ĐBSCL có hơn 100 cơ sở cho sinh sản nhân tạo cá tra  và gần 1.900 hộ ươm dưỡng cá giống với diện tích khoảng 1.500ha; sản lượng cá bột sản xuất ước đạt hơn 16 tỷ con/năm, tập trung ở các địa phương như: Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ… trong đó An Giang là tỉnh sản xuất và cung ứng cá tra giống chủ yếu của khu vực với 1,5 đến 4 tỷ con/năm.

Tuy nhiên, thời gian qua chất lượng con giống suy giảm và không đảm bảo chất lượng, tỷ lệ hao hụt trong các ao nuôi, đặc biệt có những ao nuôi cá tra có tỷ lệ hao hụt 40%- 50%. Hầu hết các vùng nuôi đều xuất hiện bệnh phổ biến trên cá tra như: xuất huyết trắng mang, trắng gan, nhất là căn bệnh gan thận mủ… nguyên nhân là do đàn cá bố mẹ bị thoái hóa, lai cận huyết đã xuống cấp đến mức đáng báo động; sự cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các cơ sở sản xuất cá bột, cho cá đẻ ép, đẻ non và đẻ nhiều lần trong năm.

Điều này làm cho chất lượng cá giống ngày càng suy giảm ảnh hưởng nghiêm trọng, trực tiếp đến sản lượng, năng suất và hiệu quả kinh tế của các cơ sở nuôi.

Ông Nguyễn Thanh Tùng, Viện trưởng Viện Kinh tế và quy hoạch thuỷ sản, Bộ NN& PTNT cho biết: "Hiện nay, con giống chưa đảm bảo, dịch bệnh nhiều, sản xuất manh mún nên nguồn cung cho thị trường không ổn định. Vì vậy, nhu cầu cấp thiết nhất thời điểm này là chúng ta phải liên kết sản xuất giống 3 cấp chất lượng cao cung cấp cho ĐBSCL nhằm phát triển bền vững cho ngành cá tra hiện tại và tương lai".

Để có nguồn cá giống chất lượng cao cung cấp cả vùng ĐBSCL, Thủ tướng Chính phủ đã giao cho tỉnh An Giang xây dựng đề án “Liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp chất lượng cao cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long tại An Giang"; định hướng xây dựng An Giang trở thành trung tâm giống cá tra công nghệ cao cung cấp con giống chất lượng cao theo hướng liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp. Từ đó để từng bước đáp ứng đủ về nhu cầu con giống cá tra có chất lượng tốt cho vùng ĐBSCL, góp phần tái tạo ngành cá tra theo hướng bền vững và hiệu quả hướng đến quản lý chặt chẽ và bền vững thông qua các mối liên kết.

Theo ông Lâm Quang Thi, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, An Giang là địa phương có nguồn lao động dồi dào, điều kiện kinh tế - xã hội phù hợp; đồng thời có điều kiện địa hình thuận lợi để phát triển sản xuất cá tra. Đây cũng là một trong những cái nôi của giống cá tra, có nhà máy sản xuất cá tra lớn và cung cấp nguồn cá tra xuất khẩu lớn trong cả nước. Vì vậy chọn An Giang là địa phương triển khai và phát triển cá tra là hợp lý.

"Con cá tra hiện đang bấp bênh, điều đó đặt ra cho chúng ta một yêu cầu, phải hoàn thiện từ khâu sản xuất giống tới đầu ra của thị trường. Từ đó, đưa nó trở thành sản phẩm quốc gia, sản phẩm mang lợi thế so sánh của Việt Nam. Đặc biệt là khâu sản xuất cá giống nếu làm không tốt thì con cá tra vẫn tiếp tục bấp bênh".

Liên quan đến vấn đề này, tại hội thảo “Liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp chất lượng cao cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long tại An Giang" mới đây, các biểu đã thống nhất, việc thực hiện đề án “liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp chất lượng cao cho vùng ĐBSCL là cần thiết; tạo được nguồn giống tốt là rất quan trọng trong chuỗi sản xuất cá tra. Con giống là quan trọng trong phát triển cá tra, có con giống sạch bệnh là căn cơ mang lại hiệu quả cao, nâng chất lượng và thương hiệu.

Đơn vị cấp 1 sẽ là các viện nghiên cứu, các trường đại học tham gia nguồn lực và nghiên cứu; Cấp 2 là các trung tâm và doanh nghiệp sản xuất giống; Cấp 3 là các cơ sở ươm giống. Trong đó, doanh nghiệp là nòng cốt đóng vai trò quan trọng trong đề án; doanh nghiệp kết hợp với các hộ dân ươm giống đồng thời phối hợp với các cơ quan nghiên cứu để tạo ra giống tốt đảm bảo chất lượng. Đây thực sự là mong muốn chung của người làm giống, người nuôi cá thương phẩm và các cơ quan ban ngành nhà nước...

Ông Đặng Quốc Tuấn, Phó Chủ tịch HĐQT, Kiêm Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Việt Úc cho biết: "Những người tham ra phải thực sự tìm được giải pháp năng động, hiệu quả. Doanh nghiệp sẽ đóng vai trò vị thế là người dẫn đầu, có tiềm lực tài chính, tiềm năng quản trị để tìm công nghệ và đưa ra các giải pháp để phát triển; người dân là những người trực tiếp sản xuất, làm ra sản phẩm thì cần phải có tư duy cởi mở để đón nhận những tiến bộ về khoa học công nghệ. Trong chuỗi liên kết này thì mỗi người tham gia cần phải có gắng đóng góp nhiều hơn nữa cái vai trò của mình.

Còn về mặt chính sách, nhà nước nên đi theo hướng dài hạn như: sản xuất giống thì nên đề ra những chuẩn mực, bình đẳng và cả ngành phải vận hành theo chuẩn mực này và mục đích cuối cùng là hướng tới chất lượng thì nó sẽ tạo ra sự phát triển bền vững hơn cho ngành cá tra".

Theo ông Vũ Văn Tám, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT, mục tiêu đến năm 2020, cung cấp khoảng 50% nhu cầu giống cá tra và đến năm 2025 cung cấp 70% nhu cầu giống cá tra tương đương gần 2,5 – 2,8 tỷ giống cá tra cung cấp cho các địa phương tại khu vực ĐBSCL.

Điều này cho thấy tạo được nguồn giống tốt là rất quan trọng trong chuỗi sản xuất cá tra, do đó việc phải hoàn thiện "liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp" để tạo ra giống có chất lượng có tính di truyền chọn lọc có khả năng tăng trưởng nhanh, kháng bệnh, chất lượng thịt tốt... phục vụ cho nuôi thương phẩm là điều cấp thiết hiện nay, để phát huy tiềm năng, thế mạnh và phát triển bền vững thị trường cá tra.

"Bộ nông nghiệp sẽ hỗ trợ An Giang để hoàn thành đề án này, trong đó quy hoạch thành 3 vùng sản xuất giống tập trung, có sự đầu tư của ngân sách nhà nước đối với các cơ sở hạ tầng thiết yếu và có sự hỗ trợ về khoa học công nghệ và các chính sách khác, làm sao để tạo ra sản phẩm cá tra chất lượng cao khắc phục tình trạng hiện nay.

Tới đây Bộ cũng xây dựng hoàn thiện toàn bộ các quy chuẩn kỹ thuật, đặc biệt là quy định rất là cụ thể về điều kiện sản xuất, từ giống đến toàn bộ chuỗi sản phẩm cá tra. từ đó không những xây dựng thương hiệu, truy xuất được nguồn gốc, đáp ứng được tất các yêu cầu của thị trường, kể cả là thị trường khó tính nhất" - Thứ trưởng Vũ Văn Tám nhấn mạnh.

Cá tra là đối tượng nuôi nước ngọt phổ biến ở vùng ĐBSCL, đồng thời là sản phẩm chủ lực của ngành thủy sản Việt Nam. Việc liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp chất lượng cao là một khâu rất quan trọng trong chuỗi sản xuất cá tra góp phần để con cá tra phát triển bền vững./.

(Theo VOV)

Hiệu quả và giải pháp phát triển bền vững mô hình nuôi tôm-lúa


Nuôi tôm-lúa đã là nghề góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho nông dân nhiều vùng ven biển của đồng bằng sông Cửu Long. Hiện tại, hình thức nuôi chủ yếu là luân canh 1 vụ tôm- 1 vụ lúa. Diện tích sản xuất luân canh tôm-lúa trong khu vực tăng nhanh, đến nay ước đạt 160.000 ha, diện tích tiềm năng trên 200.000 ha, năng suất bình quân đạt từ 320-500 kg/ha, phần lớn tập trung tại các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau. Bạc Liêu, Tiền Giang, Sóc Trăng, Bến Tre…

Mô hình nuôi tôm- lúa mang lại hiệu quả kinh tế cao so với độc canh cây lúa trên cùng diện tích, trong thời gian qua đã phát triển khá ổn định và thể hiện tính bền vững. Năng suất nuôi được cải thiện qua từng năm do người dân đã có nhiều kinh nghiệm và áp dụng một số tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Theo đánh giá của các tỉnh và các cơ quan nghiên cứu thì đây là một mô hình mang tính bền vững và có hiệu quả kinh tế.

Nuôi tôm - lúa có nhiều lợi ích: Giảm chi phí làm đất, giảm phân bón, giảm thuốc bảo vệ thực vật, tạo sản phẩm lúa và tôm an toàn thực phẩm, đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng, mô hình nuôi bền vững, thân thiện môi trường. Mô hình tôm lúa nuôi với mật độ thưa nên tôm nhanh lớn, ít dịch bệnh. Do cấy lúa cải tạo được đất đáy, tạo môi trường tốt cho tôm phát triển.

Hiệu quả triển khai mô hình tôm lúa tại đồng bằng sông Cửu Long

Trong thời gian qua, bên cạnh việc phát triển các mô hình nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã rất quan tâm đến các mô hình nuôi tôm tại Đồng bằng sông Cửu Long theo hướng bền vững, trong đó có mô hình nuôi luân canh tôm lúa. Từ năm 2011 đến nay, thông qua các chương trình Khuyến nông Quốc gia và các chương trình khuyến nông tại địa phương đã tổ chức các lớp tập huấn hướng dẫn tiến bộ khoa học kỹ thuật nuôi tôm- lúa và xây dựng các mô hình trình diễn để người dân có điều kiện được tham quan, học tập trao đổi kinh nghiệm sản xuất.

Năm 2011-2013, Bộ đã phê duyệt dự án khuyến ngư “Phát triển nuôi tôm lúa” do Trung tâm Khuyến nông quốc gia phối hợp Trung tâm Khuyến nông Sóc Trăng thực hiện. Dự án được thực hiện với quy mô 4 tỉnh: Cà Mau, Kiên Giang, Bạc Liêu và Sóc Trăng, với diện tích 190 ha và 190 hộ dân tham gia.

Kết quả triển khai cho thấy, việc trồng lúa trên đất nuôi tôm không xảy ra xung đột trong quá trình sản xuất, mà là mô hình thông minh. Vào mùa khô, nước ngoài sông rạch mặn thì lấy vào nuôi tôm, khi mưa xuống nước ngọt thì đưa vào trồng lúa. Trong hệ thống canh tác tôm- lúa, sau khi nuôi một vụ tôm thì tiến hành trồng một vụ lúa, khi đó những chất thải hữu cơ dưới đáy ao sau khi thu hoạch tôm sẽ làm cho ruộng lúa màu mỡ, người trồng lúa chỉ bón một lượng phân nhỏ là đáp ứng nhu cầu phát triển của cây. Bên cạnh đó, để tránh ảnh hưởng đến tôm nuôi, người dân phải áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp, ít sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (giảm 70-80%). Ngược lại, nuôi tôm sau vụ lúa thì nền đáy ao đã được khoáng hóa nên các chất độc hại giảm, hạn chế tình trạng vùng nuôi tôm bị lão hóa do đất bị ngập mặn lâu, đồng thời cắt phần mầm bệnh trong ao nuôi, môi trường ổn định, khi nuôi tôm không cần sử dụng nhiều thuốc, hóa chất, hạn chế chi phí sản xuất, lợi nhuận tăng cao.

Theo đánh giá của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, hệ thống canh tác tôm lúa hạn chế sử dụng hóa chất độc hại, sử dụng tài nguyên nước hợp lý theo từng thời điểm và mùa trong năm, thích ứng với điều kiện tự nhiên, thời tiết khí tượng thủy văn, tạo ra sản phẩm sạch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phù hợp với sản xuất nông nghiệp, từ đó nâng cao giá trị hàng hóa, tăng lên từ 2-3 lần so với chỉ cấy lúa. Ngoài ra, mô hình này giải quyết được vấn đề ô nhiễm nguồn nước, lão hóa vùng nuôi tôm, giảm thiểu rủi ro dịch bệnh, tạo điều kiện giúp nghề nuôi phát triển bền vững.

Tuy nhiên, bên cạnh nhiều lợi ích thì mô hình này vẫn còn bộc lộ một số bất cập: Là mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến nên công trình chưa đảm bảo, bị rò rỉ, bị nhiễm phèn và không giữ được nước. Kỹ thuật về nuôi tôm-lúa của bà con còn hạn chế, chủ yếu nuôi theo kinh nghiệm nên năng suất bấp bênh và thiếu ổn định. Môi trường ngày càng ô nhiễm, độ mặn biến động lớn, thời tiết biến đổi gây biến động môi trường lớn. Hiện nay các vùng sản xuất tôm lúa nằm xen trong các khu nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh, hệ thống thủy lợi phục vụ mô hình tôm lúa chưa đồng bộ, vấn đề quản lý nguồn nước, dịch bệnh chưa chặt chẽ, còn thiếu sự liên kết, hợp tác trong người dân ở từng khu vực và giữa các bên có liên quan, để phát triển mô hình tôm lúa.

Ngoài ra, tôm giống chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, chất lượng, thời gian theo thời vụ không được khuyến cáo, người dân ít quan tâm đến chất lượng tôm giống. Sản xuất lúa phụ thuộc nhiều vào thời tiết và nguồn nước ngọt, chưa có giống lúa đặc thù cho từng vùng sinh thái khác nhau, nên năng suất, chất lượng lúa thấp. Nông dân thiếu vốn sản xuất trong khi giá vật tư nông nghiệp không ổn định và cao so với khả năng đầu tư của nông hộ.

Giải pháp phát triển bền vững

Trước những lợi ích và bất cập của mô hình nuôi tôm-lúa, Trung tâm Khuyến nông quốc gia đã đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển bền vững nghề này:

Tăng cường công tác quản lý chất lượng tôm giống, xét nghiệm và cho kết quả nhanh bệnh dịch trên tôm. Đầu tư nghiên cứu lai tạo ra các giống lúa có khả năng chịu mặn, chịu phèn tốt, kháng bệnh, năng suất và chất lượng tốt.

Để mô hình luân canh tôm lúa tiếp tục phát triển mạnh và bền vững, trong thời gian tới cần quy hoạch hợp lý các vùng luân canh, để có các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng phù hợp và chính sách tín dụng hỗ trợ sản xuất, khuyến khích sản xuất theo hướng liên kết, hợp tác. Nâng cấp các công trình nuôi trồng thủy sản, đặc biệt đối với hình thức nuôi luân canh tôm lúa, cần gia cố bờ bao, mương bao để đảm bảo ứng phó với hiện tượng biến đổi khí hậu, nước biển dâng trong thời gian tới.

Tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật, chỉ nên nuôi 1 vụ tôm, 1 vụ lúa/năm. Mật độ nuôi chỉ nên duy trì dưới 8 con/m2, diện tích mương nuôi tôm chiếm không quá 30% tổng diện tích.

Tăng cường tập huấn kỹ thuật, nhất là quản lý môi trường nước và phòng trị bệnh trên tôm nuôi. Tổ chức các điểm trình diễn mô hình tôm- lúa cho nông dân tham quan, học hỏi kinh nghiệm, nhằm tăng hiệu quả sản xuất. Người dân cần liên kết và hợp tác trong sản xuất, để cải tạo đất, thả tôm giống, gieo cấy lúa theo lịch thời vụ.

Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về lợi ích và hiệu quả của hình thức nuôi tôm lúa.

Nuôi tôm là nuôi nước


Trong năm 2015, hiện tượng tôm chết vì bệnh hoặc không rõ nguyên nhân trong khoảng 30 - 45 ngày đầu tiên hoặc chậm lớn xảy ra khá phổ biến ở nhiều vùng nuôi tôm trên cả nước. Nếu tôm giống có nguồn gốc rõ ràng, sạch bệnh thì nguyên nhân của các hiện tượng vừa nêu chủ yếu liên quan đến cách thức cải tạo ao hoặc quản lý chất lượng nước. Kinh nghiệm thực tiễn đã khẳng định người nuôi tôm sẽ thành công hơn nếu thực hành được nguyên tắc cốt lõi “nuôi tôm là nuôi nước”.

Để “nuôi” được nước, chúng ta cần hiểu về yêu cầu chất lượng nước ban đầu và diễn biến điển hình của nó trong một vụ nuôi. Hơn nữa, đánh giá chất lượng nước bằng cảm quan chỉ hiệu quả với những người đã có nhiều năm kinh nghiệm. Nếu bạn mới bắt đầu nuôi tôm, cần phải thực hiện một cách nghiêm túc các công đoạn trong quá trình cải tạo ao, dự đoán thời điểm có thể xảy ra sự cố và thường xuyên quan trắc các yếu tố môi trường quan trọng trong suốt quá trình nuôi.

Tôm thẻ chân trắng là loài rộng muối. Nhờ vậy chúng được thả nuôi ở cả 3 vùng nước: mặn, lợ và ngọt. Tuy nhiên, độ mặn chỉ là một trong nhiều yếu tố môi trường cần phải kiểm soát. Không phải nguồn nước cấp nào cũng có tính chất tự nhiên thuận lợi cho việc nuôi tôm. Các yếu tố môi trường cơ bản của nguồn nước ban đầu cần được kiểm tra gồm độ mặn, độ pH, độ kiềm và hàm lượng chất hữu cơ.

Độ mặn phù hợp để nuôi tôm thẻ chân trắng dao động từ 5 – 35 %o. Những vùng có độ mặn thấp hơn 5 %o thường có độ kiềm thấp (20 – 60 mg CaCO3/l), khiến cho pH biến động lớn hoặc không đáp ứng được nhu cầu về khoáng của tôm nuôi. Gặp trường hợp này người nuôi tôm cần bón vôi, bổ sung thêm khoáng tổng hợp và kali (K+). Khi cần nâng nhanh độ kiềm trong ao, ví dụ như sau khi tôm lột xác, nên sử dụng NaHCO3. Độ kiềm của nước trong ao cần phải được duy trì ở mức 80 – 120 mg CaCO3/L.

Để kiểm soát tốt dịch bệnh, độ pH của nước trong ao nuôi tôm nên được duy trì trong khoảng từ 7,2 – 7,8. Biên độ dao động cực đại trong ngày không quá 0,5. Kinh nghiệm sản xuất trong giai đoạn 2013 – 2015 cho thấy nếu kiểm soát pH ổn định trong khoảng này, cơ hội thành công rất cao. Để nâng độ pH, người nuôi tôm có thể dùng vôi. Để giảm độ pH thì đưa mật rỉ đường trực tiếp xuống ao hoặc sục khí với chế phẩm vi sinh tốt khoảng 24 – 36 giờ trước khi sử dụng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng hiệu quả tốt chỉ có nếu ao nuôi được đầu tư đầy đủ hệ thống quạt nước, giúp khuấy đảo và cung cấp đủ oxy.

Hàm lượng chất hữu cơ trong môi trường ao nuôi là yếu tố quan trọng cần được kiểm soát một cách chặt chẽ. Các nguồn nước bị ô nhiễm thường có hàm lượng chất hữu cơ cao, tạo điều kiện cho mầm bệnh phát triển và sẽ tiêu tốn nhiều oxy hòa tan. Giải pháp tốt nhất là sử dụng ao lắng. Khi các chất lơ lửng đã lắng xuống đáy, ta có thể bơm nước vào ao nuôi, chạy quạt liên tục vài ba ngày để các chất hữu cơ hòa tan hoặc chất lơ lửng có kích thước nhỏ có thể phân hủy hoàn toàn rồi hãy xử lý, diệt khuẩn bằng hóa chất. Xử lý nước khi hàm lượng chất hữu cơ còn cao luôn tốn kém hơn và không hiệu quả. Ngoài ra, sau mỗi vụ nuôi, lượng chất hữu cơ tồn tại ở đáy các ao đất là rất lớn. Cần phải cải tạo ao thật kỹ, phơi nắng 3 – 5 tuần để tia cực tím diệt hết khuẩn và các chất hữu cơ được oxy hóa, phân hủy hoàn toàn. Các cơ sở nuôi tôm thành công đều dành từ 6 – 8 tuần để cải tạo ao thật kỹ trước khi vào vụ nuôi chính để có thể nuôi liên tục 2 vụ. Thậm chí, có cơ sở lột cả bạt lót đáy ao và bờ ao để vệ sinh và lót lại trước khi tiến hành cấp nước, xử lý và thả tôm giống.

Nếu người nuôi tôm đã cải tạo ao kỹ, làm đúng qui trình, xử lý nước và tạo môi trường thuận lợi (chạy quạt, ủ phân bón và chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản để gây màu nước, phát triển thức ăn tự nhiên), ngăn chặn các vật trung gian lây nhiễm mầm bệnh vào ao thì tỉ lệ sống và tốc độ phát triển của tôm nuôi trong tháng đầu tiên thường chỉ phụ thuộc vào chất lượng tôm giống và mức độ chăm sóc mà cụ thể là cách cho ăn và quản lý thức ăn.

 Ngoại trừ các diễn biến bất thường của thời tiết, hầu hết các sự cố gặp phải trong ao nuôi ở các tháng nuôi thứ 2, 3 và sau đó đều có liên quan đến việc quản lý hàm lượng chất hữu cơ tích lũy trong môi trường. Ở tháng nuôi đầu, do tổng khối lượng của đàn tôm không lớn nên lượng thức ăn đưa xuống ao không nhiều. Thức ăn, nếu có dư thừa hoặc do tôm đột ngột giảm bắt mồi, cũng khó gây hậu quả nghiêm trọng và sẽ bị phân hủy để trở thành nguồn dinh dưỡng cho sự phát triển của tảo và các sinh vật khác trong ao. Tuy nhiên, theo thời gian và sự phát triển của tôm, lượng thức ăn đưa xuống ao từ tháng thứ 2 trở đi mỗi lúc một nhiều. Nguy cơ ô nhiễm là thường trực do thức ăn thừa, xác lột của tôm, do phân và các chất bài tiết mà tôm thải ra. Môi trường nước trở nên phì dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi cho tảo phát triển, làm cho độ pH biến động mạnh theo chiều hướng bất lợi. Sau đó tảo tàn có thể tiêu hao oxy hòa tan, sản sinh ra các độc tố gây yếu hoặc chết tôm nuôi. Nước mất màu, hàm lượng oxy hòa tan giảm mạnh, các chất khí độc bùng phát gây stress cho tôm. Lượng chất hữu cơ trong môi trường càng lớn, nguy cơ nhiễm độc NH3, NO2- hay H2S càng cao và có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Theo chu trình chuyển hóa, sau sự cố về tảo, sẽ là sự cố về NH3 hoặc H2S. Tiếp theo sẽ là sự cố về NO2-.

Để kiểm soát lượng chất hữu cơ, trước hết người nuôi tôm cần đầu tư hệ thống quạt nước, sục khí phù hợp và nâng dần công suất lên theo thời gian nuôi. Một ao nuôi tôm thẻ chân trắng mật độ 150 con/m2 theo thiết kế chuẩn, có diện tích khoảng 1.600 – 2.000 m2, muốn đạt hiệu quả cần được trang bị từ 4 – 5 giàn quạt nước, có công suất từ 2 – 3 mã lực/giàn. Trong tháng nuôi đầu tiên, chỉ cần chạy liên tục 1 giàn vào ban ngày và 2 giàn vào ban đêm là đủ. Nhưng từ tháng thứ 2 thì phải chạy liên tục 2 giàn vào ban ngày và toàn bộ vào ban đêm, đồng thời chuyển sang cho ăn bằng máy tự động để lượng thức ăn đưa vào môi trường duy trì ở mức thấp nhưng liên tục trong ngày. Nếu giám sát tốt (kiểm tra nhá, lặn xem đáy ao) thì sẽ hạn chế được nguy cơ cho ăn thừa. Từ tháng nuôi thứ 3 trở đi, nếu tôm phát triển tốt, lượng tôm trong ao nhiều, thì cần phải bổ sung thêm quạt nước hoặc sục khí đáy, đặc biệt là vào ban đêm hoặc những thời điểm tôm đang lột xác. Giàn quạt cần được bố trí sao cho có thể giúp gom tụ chất thải vào khu vực giữa ao để có thể siphon hết chất thải. Tần suất siphon tăng dần theo thời gian, từ 5 – 7 ngày/lần ở tháng thứ 1, đến 2 – 3 ngày/lần ở tháng thứ 2 và hàng ngày ở tháng thứ 3.

Tiếp theo, cần sử dụng chế phẩm vi sinh loại tốt hàng ngày để cải thiện tốc độ chuyển hóa của vật chất trong ao, giúp cho môi trường được sạch và ổn định. Sự phát triển của các lợi khuẩn có trong chế phẩm vi sinh còn ức chế các vi sinh vật gây bệnh. Để giảm chi phí và tăng hiệu quả sử dụng, người nuôi tôm cần tìm hiểu và thực hành qui trình nuôi tăng sinh khối lợi khuẩn đơn giản (Hình 2, xem chi tiết ở trang 73 tài liệu “Thực hành nuôi tôm thẻ chân trắng hiệu quả, bền vững” của Skretting Vietnam 2015). Lưu ý là hiệu quả của lợi khuẩn chỉ có nếu hàm lượng oxy hòa tan của nước trong ao được duy trì ở mức cao và môi trường nước được khuấy đảo thường xuyên.


Hình 4: Tôm nuôi phát triển tốt sau 43 ngày thả trong môi trường giàu oxy, chất lượng nước được quản lý tốt.

Về cơ bản, người nuôi cần phải dự báo tốt diễn biến của môi trường nước trong ao nuôi hoặc các thay đổi bất thường của thời tiết để có biện pháp can thiệp trước khi sự cố xảy ra hoặc can thiệp kịp thời khi chúng mới nảy sinh. Một khi môi trường nước ao đã trở nên bất lợi thì giải pháp tốt nhất là thay nước, kể cả sử dụng nguồn nước chưa kịp xử lý nếu việc thay nước là khẩn cấp nhằm làm giảm ngay hàm lượng của các chất gây ô nhiễm hoặc mật độ tác nhân gây bệnh. Làm tốt những điều nêu trên và luôn tâm niệm “nuôi tôm là nuôi nước”, chắc chắn thành công sẽ sớm đến và đến nhiều hơn với bạn.

PGS TS Hoàng Tùng

Vai trò của đất nền đáy ao trong nuôi trồng thủy sản?


Nền đáy ao nuôi thủy sản là nơi chứa đựng các sản phẩm tồn dư do trong các thành phần chúng ta đưa xuống như vôi, thuốc, hóa chất, phân tôm cá, xác tôm cá chết,... trong quá trình nuôi. Các sản phẩm hữu cơ theo thời gian, do sự rửa trôi, xói mòn, rò rỉ tích tụ dần xuống đáy ao nuôi. Cũng chính nơi đây quá trình hấp thu, phân giải, phân hủy vật chất hữu cơ diễn ra hết sức mạnh mẽ, các loại khí độc như H2S, NO2  được sinh ra nhiều hơn và liên tục hơn với cường độ mạnh dần qua các tháng nuôi. Như vậy, nền đáy ao bị ô nhiễm do công tác cải tạo, xử lí ao trước mỗi vụ nuôi còn xem nhẹ hoặc tiến hành sơ sài, công tác nạo vét bùn đáy không đạt yêu cầu.

Việc lấy nước trực tiếp từ sông rạch vào thẳng ao nuôi không qua hệ thống ao lắng lọc, ao xử lí. Lạm dụng quá mức trong việc dùng vôi, thuốc, hóa chất trong việc xử lí dịch bệnh, nguồn nước, môi trường. Chưa quan tâm và đánh giá đúng vai trò của màu nước trong ao nuôi, dẫn đến tình trạng tảo không phát triển hoặc phát triển quá mức, gây hiện tượng nở hoa và tàn lụi dần, đóng góp vào nền đáy hàm lượng chất hữu cơ ô nhiễm đáng kể. Cho ăn quá dư thừa, quản lí việc cho ăn còn thiếu kinh nghiệm, không bố trí việc cho tôm, cá ăn hợp lí như thời điểm cho ăn, địa điểm cho ăn, sử dụng loại thức ăn không đúng cho từng độ tuổi và khả năng tăng trưởng của cá. Hiện tượng sạt lở, xói mòn thường xuyên xảy ra nhất là vào mùa mưa.

Khi nền đáy ô nhiễm xuất hiện những ảnh hưởng gì đến vật nuôi thủy sản?

Quá trình phân hủy vật chất hữu cơ ở đáy ao diễn ra mạnh, có rất nhiều O2 trong ao được lấy để sử dụng cho quá trình này. Do vậy, ao dễ thiếu oxy cục bộ dưới đáy. Cùng với quá trình thiếu hụt dưỡng chất tại ao, nhiều khí độc được sinh ra như NH3, H2S, NO3. Ngoài việc những khí này rất độc với tôm cá nuôi, những khí này còn tác động làm cho độ phèn (pH), hệ đệm Bicarbonat... tăng giảm thất thường trong ngày, giữa sáng và chiều. Do những thay đổi này, cá tôm nuôi trong ao phải thường xuyên thay đổi, điều tiết, cân bằng nên dễ bị sốc. Mặt khác do độ phèn bất ổn, nên quá trình quang hợp tạo khí oxy diễn ra rất hạn chế, nhưng quá trình hô hấp tạo khí CO2 vào ban đêm vẫn diễn ra bình thường, cùng với qúa trình phân hủy hữu cơ nơi đáy ao đưa tới việc gia tăng nhanh chóng hàm lượng khí cacbonic(CO2), gây khó khăn cho quá trình hô hấp của vật nuôi thủy sản trong ao, ảnh hưởng trực tiếp đến tỉ lệ sống.

Tôm cá nuôi trong ao thường tăng trưởng chậm, còi cọc, dễ bệnh và thời gian nuôi kéo dài. Những tác động này còn ảnh hưởng kéo dài đến vụ nuôi sau, gây khó khăn trong việc gây màu nước và giữ màu nước. Môi trường đáy ao dơ bẩn không còn là nơi an toàn để vật nuôi thủy sản trong ao sinh sống, chúng dần chuyển lên tầng nước trên và gây nên sự tâp trung cục bộ với mật độ dày. Ngoài những biện pháp tích cực thực hiện đồng bộ ngay từ công đoạn cải tạo và xử lí ao, sên vét bùn đáy, xảm mọi, gia cố bờ bọng...

Việc hạn chế tối đa dùng các loại thuốc, hóa chất và đặc biệt là việc quản lí thức ăn như hàm lượng, thành phần các chất trong thức ăn, lượng thức ăn hàng ngày sử dụng, số lần cho ăn trong ngày, vị trí cho ăn. Đặc biệt lưu ý đến thời điểm môi trường có những thay đổi bất thường, thời điểm vật nuôi có những thay đổi về mặt sinh lí như tôm lột, cá bệnh... cần phải điều chỉnh lại lượng thức ăn cho hợp lí. Trong nuôi trồng thủy sản ở dạng bán thâm canh, thâm canh, việc sử dụng máng ăn (sàng ăn) cần được quan tâm và thực hiện nghiêm túc, đây là cơ sở vững chắc giúp người nuôi thủy sản đánh giá chính xác mức độ sử dụng thức ăn hàng ngày của vật nuôi, tình trạng sức khỏe của vật nuôi, tốc độ tăng trưởng của vật nuôi nhằm điều chỉnh cho phù hợp với thực tế tại ao, tránh cho ăn theo dạng quán tính.

Các mô hình nuôi thủy sản cần mạnh dạn đưa vào hệ thống nuôi của mình ao lắng lọc, ao xử lý nước thải và khai thác tối đa vai trò của các loại ao này. Định kỳ hàng tuần, nhất là từ tháng nuôi thứ 2 trở đi nên dùng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản, men vi sinh bón xuống ao giúp phân giải và giảm thiểu các chất độc hại, ngăn chặn sự phát tán của dịch bệnh, tăng cường hệ miễn dịch và sức đề kháng của vật nuôi. Từ tháng nuôi thứ 2, việc thay nước dựa vào chất lượng nguồn nước ao nuôi, điều chỉnh lượng nước thay cho phù hợp. Sự thành công các mô hình nuôi thủy sản gắn liền với việc quan tâm và chủ động trong việc ổn định nền đáy ao nuôi theo hướng hợp lí, hướng các mô hình nuôi thủy sản thực sự ổn định, bền vững và hiệu quả.

Một số nguyên nhân tác động xấu đến nền đáy ao nuôi

-   Lấy nước trực tiếp từ sông rạch vào thẳng ao nuôi không qua hệ thống ao lắng lọc, ao xử lí.
-   Lạm dụng việc dùng vôi, thuốc, hóa chất trong việc xử lí dịch bệnh, nguồn nước, môi trường.
-   Tình trạng tảo không phát triển hoặc phát triển qúa mức, gây hiện tượng nở hoa và tàn lụi dần, đóng góp vào nền đáy hàm lượng chất hữu cơ ô nhiễm đáng kể.
-   Cho ăn quá dư thừa, quản lí việc cho ăn còn thiếu kinh nghiệm, không bố trí việc cho tôm, cá ăn hợp lí.
-   Hiện tượng sạt lở, xói mòn thường xuyên xảy ra nhất là vào mùa mưa.

Làm sao để xử lý đáy ao hiệu quả?

Để xử lý bùn đáy ao hiệu quả, các chuyên gia khuyên bà con nên sử dụng men vi sinh xử lý bùn đáy ao nuôi thủy sản EcoClean Sludge Reducer của Mỹ. Đây là sản phẩm bao gồm hàng tỉ tế bào được phân lập chuyên biệt cho xử lý bùn đáy ao nên sẽ mang lại hiệu quả cao hơn so với các loại men vi sinh "đa năng" trên thị trường.

Cụ thể, E. Sludge Reducer là một công thức pha trộn vi sinh và hỗn hợp của 23 vitamin thiết yếu, kích thích sinh học, các enzyme để xử lý bùn đáy. Sản phẩm giúp tiết kiệm chi phí nạo vét và giảm hình thành bùn đáy, loại bỏ khí độc tích tụ trong lớp bùn.

Mọi chi tiết bà con vui lòng liên hệ đến Hotline: 0908.901.955 để được tư vấn miễn phí, hoặc gửi thư về địa chỉ admin@moitruongdeal.com.

vi sinh xử lý bùn đáy ao nuôi thủy sản


Sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản như thế nào cho đúng?

Tránh dịch bệnh, bảo vệ môi trường là ưu thế của chế phẩm sinh học (CPSH) trong việc sản xuất thuỷ sản sạch. Tuy nhiên, việc ngộ nhận CPSH là vô hại khiến nhiều bà con sử dụng nó một cách vô tội vạ, khi tôm cá chết hàng loạt lại nghĩ do ô nhiễm môi trường.

Đừng lạm dụng chế phẩm sinh học không đúng cách

Nhiều lô hàng thuỷ sản xuất khẩu bị trả về do dư lượng kháng sinh lớn chỉ là một trong các tác hại của tình trạng lạm dụng kháng sinh, bên cạnh sự gia tăng bệnh dịch do kháng thuốc, môi trường bị ảnh hưởng. Sự lên ngôi của các CPSH thời gian qua góp phần giải quyết nạn này. Tuy nhiên, do nhiễu thông tin từ các công ty bán CPSH, nhiều nông dân dùng không đúng chỉ dẫn của các nhà khoa học, dẫn đến thất bại.


CPSH còn gọi là men vi sinh - tiếng Anh là probiotics - bao gồm hai từ pro có nghĩa là thân thiện hay thiên về và biotics có nghĩa là sự sống, sinh vật. CPSH được sản xuất với mục đích kích thích sự gia tăng các loài vi khuẩn có lợi trong môi trường. CPSH là sản phẩm được tạo ra bởi con người, bằng cách kết hợp hai hoặc nhiều dòng vi khuẩn có lợi trong cùng một môi trường để tác động tới đối tượng cần cải tạo (đất, nước, đường ruột, v.v…). Gần đây, việc sử dụng các chế phẩm trong chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản – nuôi tôm thẻ chân trắng, tôm sú, cá tra, ốc hương, ếch, v.v… là một xu hướng mới thay thế cho biện pháp dùng kháng sinh hoặc loại bỏ việc dùng các chất diệt khuẩn như Cloramin, clorine, focmon, peracetic acid…
Trên thị trường hiện có hàng nghìn sản phẩm hóa chất, men vi sinh dùng trong xử lý, cải tạo môi trường nuôi thuỷ sản, có loại nằm trong danh mục cho phép, có loại đang thử nghiệm, có loại nhập lậu… do hàng trăm doanh nghiệp lớn, nhỏ đưa xuống bán cho các đại lý, hoặc tuồn thẳng vào ao nuôi.

Thị trường sản phẩm hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản không chỉ loạn hoá chất, kháng sinh mà còn loạn cả CPSH. Những chế phẩm này được doanh nghiệp, đại lý quảng bá như là thần dược trong việc cải tạo, làm sạch môi trường, lập lại cân bằng sinh thái trong ao nuôi, giúp con tôm không dính bệnh tật do diệt được vi khuẩn trong nước, diệt tảo độc, ức chế khí độc...

Người dân đang bị “ngộ độc” giữa một rừng kiến thức. Không nhiều nông dân nuôi thuỷ sản hiểu các thông tin ghi trên bao bì CPSH, men vi sinh, không biết những dòng ghi thành phần như “số lượng vi khuẩn hiếu khí Bacillus lichenniformis (109 CFU/g); Saccharomyces cereviseae (109 CFU/g); Lactobacillus acidophilus (5x1011 CFU/kg)…” có ý nghĩa gì.

Bà con cũng không phân biệt được CPSH nào tốt, cứ thấy công ty, đại lý bán thuốc nào đến tận nơi quảng cáo rầm rộ thì tin và mua. Ngoài ra, do không được hướng dẫn sử dụng một cách khoa học, họ có xu hướng cho CPSH xuống ao nuôi một cách tuỳ tiện, sai cách.

Với việc sử dụng tuỳ tiện như vậy, tỷ lệ thành công chỉ khoảng 2-3% do ao nuôi đó may mắn không có vi bào tử trùng. Với những ao thất bại, tôm cá chết, bà con tin lời người bán thuốc là do môi trường ô nhiễm, khí độc, virus mà không biết nguyên nhân thực sự.
ThS Nguyễn Văn Trọng - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II - cho biết, tác dụng của CPSH tùy thuộc đặc điểm môi trường trong từng trường hợp. Khi môi trường đầy vi sinh vật có hại, nếu đưa CPSH vào, vi khuẩn có lợi bị tiêu diệt hết, tác dụng sẽ bằng không.

Còn trong môi trường bình thường, việc dùng CPSH để tăng vi khuẩn có lợi sẽ giảm nguy cơ dịch bệnh, qua đó giảm lượng KS phải dùng. “CPSH giúp giảm nguy cơ dịch bệnh, còn nếu đã có bệnh thì vẫn phải dùng KS” - ông Trọng nói. Vì vậy, muốn loại trừ kháng sinh, cần dùng CPSH đúng cách.

Những hạn chế của CPSH trong nuôi trồng thủy sản như: CPSH chỉ có thể phòng ngừa dịch bệnh phát sinh trong quá trình nuôi trồng thủy sản chứ không thể điều trị khi bệnh xảy ra; Khi sử dụng CPSH tuyệt đối không thể sử dụng các hóa chất diệt khuẩn khác, vì hóa chất sẽ tiêu diệt các vi sinh làm mất tác dụng; Hoạt động hiệu quả trong môi trường nước tĩnh và sau khi đã diệt khuẩn trong ao nuôi; Trong các ao nuôi có nhiều biến động mạnh CPSH thường mang lại tác dụng thấp và không hiệu quả như những ao có khả năng quản lý môi trường nước tốt.

Do vậy, khi sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản, bà con cần lưu ý:


- Sử dụng định kỳ trong quá trình nuôi. Thông thường đối với nhóm chế phẩm xử lý môi trường thì 7 - 10 ngày sử dụng 1 lần và đối với nhóm hỗ trợ tiêu hóa thì có thể luân phiên sử dụng 3 - 5 ngày, sau đó ngưng 5 - 7 ngày. Cách dùng và liều lượng phải tuân thủ hướng dẫn của nhà sản xuất.

- Thời gian xử lý vi sinh tốt nhất là lúc trời nắng và khi môi trường trong ao đã đủ lượng oxy hòa tan để các dòng vi khuẩn nhanh chóng được khởi động và nhân rộng sinh khối.

- Bà con tuyệt đối không được sử dụng chế phẩm sinh học cùng với các loại hoá chất có tính diệt khuẩn như BKC, thuốc tím, Chlorine, kháng sinh ... Khi đã sử dụng các hóa chất nêu trên thì sau 3 - 5 ngày mới được dùng chế phẩm.

- Chỉ sử dụng các loại men vi sinh của các công ty có uy tín chất lượng và có tên trong danh mục được phép lưu hành tại Việt Nam theo quy định của Bộ Nông nghiệp-PTNT.


Bài viết được xem nhiều