Hiển thị các bài đăng có nhãn kỹ thuật nuôi tôm càng xanh. Hiển thị tất cả bài đăng

Nuôi tôm càng xanh đặc sản trên núi đá ông

Nuoi tom cang xanh dac san tren nui da ong hinh anh 1
Tôm càng xanh sống ở môi trường nước lợ, nước ngọt và được mệnh danh là đặc sản của tỉnh Đồng Nai. Ở tỉnh này, xã Trà Cổ, thuộc huyện miền núi Tân Phú là vùng có số hộ và diện tích nước ngọt nuôi tôm lớn nhất.  
Nuoi tom cang xanh dac san tren nui da ong hinh anh 2
Theo cán bộ nông nghiệp xã Trà Cổ, địa phương hiện có 45 ha mặt nước nuôi tôm càng xanh, trong đó có 30 ha được cấp chứng nhận VietGAP (thực hành sản xuất nông nghiệp tốt).
Nuoi tom cang xanh dac san tren nui da ong hinh anh 3
Một chủ ao tôm cho biết tôm càng xanh nuôi ở Trà Cổ ít dịch bệnh, sinh trưởng nhanh nên tạo nguồn thu cao cho nông dân. "Thức ăn cho tôm không phải các loại cám công nghiệp mà người nuôi tự chế biến từ hạt bắp (ngô) trộn cá nhỏ rồi nấu chín", chủ ao Nguyễn Tấn Tài cho biết. 
Nuoi tom cang xanh dac san tren nui da ong hinh anh 4
Theo lãnh đạo địa phương, nghề nuôi tôm càng xanh ở Trà Cổ hình thành từ 17 năm trước và ngày càng phát triển mạnh. Trong ảnh, người dân kéo lưới thu hoạch tôm ở ao đá. 
Nuoi tom cang xanh dac san tren nui da ong hinh anh 5
Từ ao đất cát ở vùng trũng cho đến ao đá ong ở địa hình cao đều có thể phát triển loài thủy sinh này.
Nuoi tom cang xanh dac san tren nui da ong hinh anh 6
Anh Đoàn Quốc Nam (35 tuổi) nói rằng gia đình nuôi tôm càng xanh ở 2 ao đá ong có tổng diện tích 2.000 m2 và thu hoạch sau thời gian 3-4 tháng thả giống. 
Nuoi tom cang xanh dac san tren nui da ong hinh anh 7
Gương mặt rạng rỡ của chủ ao Trương Hoàng Nhất khi vụ tôm cận Tết được mùa, được giá.  
Nuoi tom cang xanh dac san tren nui da ong hinh anh 8
Tôm có thân to, béo, càng màu xanh dài 20-25 cm. Theo người chăn nuôi, tôm thành phẩm có trọng lượng bình quân 1 kg khoảng 10-15 con.   
Nuoi tom cang xanh dac san tren nui da ong hinh anh 9
Theo thương lái Phạm Trí Tâm, mỗi tuần, ông thu mua từ 4-5 tấn tôm càng xanh để cung ứng cho các nhà hàng ở những thành phố lớn trên cả nước.   
Nuoi tom cang xanh dac san tren nui da ong hinh anh 10
Giá tôm càng xanh hiện dao động từ 160.000 đồng đến 180.000 đồng/kg. Với giá này, mỗi năm, người nuôi 1 ha tôm có thu nhập khoảng 200-300 triệu đồng. 
Nuoi tom cang xanh dac san tren nui da ong hinh anh 11
Tôm nhỏ, chậm lớn, không có thị trường tiêu thụ sẽ được chủ ao sấy khô làm thực phẩm.
Nuoi tom cang xanh dac san tren nui da ong hinh anh 12
Cán bộ nông nghiệp xã Trà Cổ - Nguyễn Minh Luân cho biết địa phương có 42 hộ nuôi tôm càng xanh, tập trung ở địa bàn ấp 4, 5. “Nghề mang lại hiệu quả kinh tế cao nên cuộc sống nhiều gia đình trở nên khá giả. Địa phương đang hướng dẫn người nuôi phát triển theo hướng tiêu chuẩn VietGAP để giữ vững, phát triển thương hiệu. Trong thời gian qua, chưa có hộ nào bị thua lỗ khi theo mô hình tôm càng xanh", ông Luân chia sẻ.

Những kỹ thuật khi nuôi tôm càng xanh

Những kỹ thuật nuôi tôm càng xanh

1. Chuẩn bị ao nuôi:

*Ao nuôi:

- Hình dạng và kích cỡ ao nuôi: Ao không có gì lạ hoặc đặc biệt hình chữ nhật , kích cỡ phù hợp và phổ thông là 0.2-0.6 ha. Mức nước phù hợp từ 0.7-0.9m. Bờ ao phải kiên cố , không rò rỉ , không hang hốc làm nơi trú ẩn cho các sinh vật hại tôm. Mặt bờ rộng ít nhất là 2m nhằm giúp cho việc đi lại chăm sóc tôm thuận tiện. Độ nghiêng đáy ao từ 3-5%.

- Cống: Mỗi ao nuôi cần ít nhất là một cống ( cống gỗ hay cống xi măng dạng lỗ hay dạng ván phay ). Nếu có hai cống thì đặt một cống cấp nước, một cống tiêu về 2 phía của ao nuôi. Kích cỡ cống tùy thuộc vào kích cỡ ao nuôi cũng như khả năng thoát nước cho ao vào mỗi khi nước cao( cống phải đảm bảo thoát từ 20-30% lượng nước ao nuôi vào mỗi lần nước lên).

- Những ao diện tích nhỏ hơn 500 m2 có thể đặt 1-3 cống lỗ xi măng hay cống bọng dừa với đường kính 20-30 cm.

- Bơm: máy nhỏ di động cũng rất cần thiết cho ao nuôi tôm , máy bơm giúp thay nước ao theo định kỳ hay vào những lúc nước ao bị dơ bẩn.

- Trong nuôi tôm , chuẩn bị ao nuôi đóng vai trò rất quan trọng, để có một ao nuôi tôm tốt nên làm các bước sau:

  + Vệ sinh ao: sau mỗi vụ nuôi , ao nhất thiết phải sên vét lớp bùn đáy nếu có xác xuất nên loại bỏ hết lớp bùn lắng tụ ở đáy , mầm bệnh và khí độc.

  + Phơi đáy ao: ao cần phơi khô đáy 2-7 ngày , nghề nghiệp này giúp oxy hóa các vật chất hữu cơ còn lại ở đáy đồng thời gii phóng các khí độc như H2S , NH3 , CH4... Trong suốt đất đáy ao. Tuy nhiên các ao đáy bị phèn không được phơi đáy ao quá khô và cày bừa thì sẽ là tầng sinh phèn ( pyrite ) bị oxy hóa và gây nước ao bị phèn. Lớp đất bị phèn nên loại bỏ khỏi bờ ao hay có kế hoạch xử lí nếu không chúng cũng bị oxy hóa và tạo phèn chôi xuống ao khi trời mưa.

  + Kiểm tra pH đất đáy ao: việc này giúp rõ ràng đúng lượng vôi sử dụng nhằm nâng pH nước lên cao nếu cần. Phương pháp đo pH đất đáy ao giản đơn là lấy một ít đất đáy ao đem pha tạp với nước ở tỷ lệ 1:1 rồi dùng máy đo trực tiếp hay dùng giấy quì tím ( khi dùng giấy quì thì nhỏ cẩn trọng 1-2 giọt vào một mặt giấy và coi mắt kia ). Bón vôi cho ao: phân bón giúp phát triển thức ăn tự nhiên, phân sử dụng thường là phân heo , gà với lượng từ 25-30kg/100m2. Bón phân 1-2 ngày thì tiến hành lấy nước vào ao ở mức 30-40cm và giữ 1-2 ngày để tảo phát triển , trước khi tăng mức nước lên 60cm.

  + Trong trường hợp có cá tạp xuất trong ao thì phải diệt trước khi đưa đủ nước để thả giống. Bột trà ( chứa saponine 10-13% ) dùng 20 mg/l , hay dây thuốc cá ( chứa retenone ) dùng 4g/m3. Tuy nhiên , tính độc của saponine và retenone xảy ra mạnh ở nhiệt độ cao do vậy nên chọn thời gian tốt nhất để diệt. Một ngày sau khi sử dụng hóa chất thì tiếp tục lấy nước vào ( qua lưới mịn ) đến khi mức nước đạt 0 , 7-0 , 9m thì kiểm tra thuốc nước , nếu thuốc nước đạt 30-40cm thì có thể tiến hành thả tôm nuôi.

Tôm càng xanh. Ảnh minh họa.

*Thả giống nuôi

Tùy theo kích cỡ giống và cách thức nuôi ( nuôi đơn hay nuôi kết hợp ) và mức độ thâm canh mà mật độ thả có khác nhau.

Trong nuôi đơn: tôm càng xanh giống tự nhiên ( 3-5g/con ) có xác xuất th ở mật độ 4-6 con/m2 , còn với tôm giống nhân tạo cỡ ( 0 , 5g/con ) thì thả 10-15 con/m2.

Trong trường hợp nuôi kết hợp với cá ( như chép , rôphi , mè trắng , mè vinh... ) thì mật độ thả từ 2-3 con/m2 đối giống tự nhiên , và 8-10 con/m2 đối với giống nhân tạo. Mật độ thả cá ngả nghiêng từ 2-3con/m2 tính chung cho các loài cá.

bây giờ , trong nuôi tôm càng xanh việc thả giống đơn tính ( toàn đực ) cũng đang được chú ý bởi lẽ tôm đực lớn nhanh và cho sản lượng cao. Tuy nhiên , việc tách đàn tôm đực và cái đối với tôm kích cỡ nhỏ thường khó thực hiện thực hành. Có các cách thường ứng dụng như sau:

- Tôm giống cỡ 2g có thể dựa vào lỗ sinh dục ở gốc chân ngực năm để phân biệt.
- Tôm giống từ 1g trở lên có thể dựa vào nhánh phụ sinh dục ở chân bụng thứ nhất.
- Tôm giống từ 2g trở lên cóthể dựa vào gờ cao ở đốt bụng thứ nhất.

Các cách nêu trên không có gì lạ, đặc biệt nhược điểm là khó thực hiện với một số lượng tôm lớn , dễ làm tôm giống bị xây xát gây hao hụt nhiều. Ngoài ra, có thể thả nuôi chung đực và cái và sau sau 3-4 tháng nuôi tôm cái sẽ mang trứng , trong trường phù hợp thu tôm cái bán và ngăn lại trong một giới hạn nhất định tôm đực nuôi tiếp.

2. Chăm sóc tôm:

Thức ăn và cho ăn: có thể  sử dụng 2 dạng thức ăn đó là thức ăn viên và thức ăn tươi sống. Mặc dù , bây giờ thức ăn tươi được dùng chủ yếu nhưng thức ăn viên hay thức ăn tự chế bổ sung cho tôm càng xanh cũng rất quan yếu nhằm bổ sung các vật chất cần thiết cho tôm. Nhìn chung , do việc nuôi tôm theo hình thức bán thâm canh tức thì thức ăn tự nhiên vẫn còn vai trò quan yếu nên cần dùng thức ăn có hàm lượng đạm từ 25-30%.

Để nuôi tôm càng xanh đạt hiệu quả cao

Đôi nét về con tôm càng xanh

Tôm càng xanh là loài giáp xác thuộc bộ mười chân ( Decapoda ) , họ tôm càng ( Palaemonidae ) , thường gặp ở các thuỷ vực nước ngọt và nước lợ thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Tôm càng xanh sống trong các vùng có có tác động đến một điều gì đó của hải triều và các hồ tự nhiên , hồ chứa , ao , đầm , kênh mương , ruộng lúa có nước lưu thông trực tiếp hay gián tiếp với các sông lớn.

Con tôm càng xanh. Ảnh minh họa.

Đặc điểm sinh học:

- Tôm càng xanh có đặc điểm ăn tạp , mắc chứng tham ăn, ăn rất nhiều và cũng vì thế tôm tăng trưởng cũng rất nhanh. Tôm trưởng thành thường ăn giun nước và tôm cỡ bé , các sâu bọ thuỷ sinh và động vật thối rữa. Ban ngày tôm hay chui rúc trong các bụi cây thuỷ sinh hoặc hang hốc , ban đêm chúng chuyển lên mặt nước và vào bờ kiếm ăn.

- Tôm càng xanh được nuôi chủ yếu từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau ( đối với các tỉnh miền Nam ).

- Tôm càng xanh lớn nhanh , thích nghi sống trong môi trường nước sạch , có lượng ôxy hoà trộn cao trên 5mg/l , pH = 7-7 , 5 , nhiệt độ 28 – 30 0C. Kích tấc tôm lớn nhất có bề dài 320mm , khối lượng 100g. Tôm cái trưởng thành khi đạt cỡ 20 – 25g , tôm đực cỡ 30 – 40g.

Gần đến thời kỳ đẻ, tôm mẹ theo dòng nước xuôi về cửa sông và đẻ trứng ở vùng nước lợ. Tôm mẹ có khả năng ôm 80.000 trứng. Trứng tôm nở trong vòng 20 ngày ở môi trường nước với nhiệt độ từ 26 -28oC. Ấu trùng phát triển trong nước lợ ( độ mặn 8 - 22‰ ) trong vòng 30 – 40 ngày , qua 12 lần lột xác, ấu trùng chuyển thành tôm con. Tôm con chuyển sang sống đáy , chuyển di ngược dòng nước đến các ao , đầm , kênh mương và ruộng lúa rồi lớn lên ở đó. Tôm con lớn đạt kích thước tối đa trong vòng 6 – 8 tháng sau nhiều lần lột xác.

Vị trí phân bố:

Trước đây tôm được nuôi nhiều và chủ yếu ở Đông Nam bộ, được khai thác nhiều trong tự nhiên. Hiện nay nghề nuôi tôm càng xanh thương phẩm đã phát triển rộng , lan rộng ra cả miền Trung và miền Bắc , với nguồn con giống phong phú và cho chất lượng cao.

Dựa vào biến hóa khác biệt rõ rệt về tốc độ sinh trưởng của tôm đực và tôm cái , khi thu hoạch tôm nuôi, con đực có kích tấc lớn hơn đáng kể so với con cái , do vậy việc tạo đàn tôm càng xanh toàn đực bằng các công nghệ chuyển đổi giới tính đang được hăng hái nghiên cứu và đã thu được một số kết quả bước đầu.

Bài viết được xem nhiều